Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

5. Bồ Tát phẩm - Đệ tứ

03 Tháng Ba 201100:00(Xem: 8120)
5. Bồ Tát phẩm - Đệ tứ

KINH DUY-MA-CẬT (Hán-Việt)
Đoàn Trung Còn - Nguyễn Minh Tiến dịch và chú giải

DUY-MA-CẬT SỞ THUYẾT KINH
QUYỂN THƯỢNG

Bồ Tát phẩm - Đệ tứ

菩薩品
第 四



於是佛告彌勒菩薩。汝行詣維摩詰問疾。

彌勒白佛言。世尊。我不堪任詣彼問疾。所以者何。憶念我昔為兜率天王及其眷屬。說不退轉地之行。時維摩詰來謂我言。彌勒。世尊授仁者記一生當得阿耨多羅三 藐三菩提。為用何生得受記乎。過去耶未來耶現在耶。若過去生過去生已滅。若未來生未來生未至。若現在生現在生無住。如佛所說。比丘汝今即時亦生亦老亦滅。 若以無生得受記者。無生即是正位。於正位中亦無受記。亦無得阿耨多羅三藐三菩提。

云何彌勒受一生記乎。為從如生得受記耶。為從如滅得受記耶。若以如生得受記者如無有生。若以如滅得受記者如無有滅。一切衆生皆如也。一切法亦如也。衆聖賢 亦如也。至於彌勒亦如也。若彌勒得受記者。一切衆生亦應受記。所以者何。夫如者不二不異。若彌勒得阿耨多羅三藐三菩提者。一切衆生皆亦應得。所以者何。一 切衆生即菩提相。若彌勒得滅度者。一切衆生亦應滅度。所以者何。諸佛知一切衆生畢竟寂滅即涅槃相不復更滅。

是故彌勒。無以此法誘諸天子。實無發阿耨多羅三藐三菩提心者。亦無退者。

彌勒當令此諸天子捨於分別菩提之見。所以者何。菩提者。不可以身得。不可以心得。寂滅是菩提。滅諸相故。不觀是菩提離諸緣故。不行是菩提無憶念故。斷是菩 提捨諸見故。離是菩提離諸妄想故。障是菩提障諸願故。不入是菩提無貪著故。順是菩提順於如故。住是菩提住法性故。至是菩提至實際故。不二是菩提離意法故。 等是菩提等虛空故。無為是菩提無生住滅故。知是菩提了衆生心行故。不會是菩提諸入不會故。不合是菩提離煩惱習故。無處是菩提無形色故。假名是菩提名字空 故。如化是菩提無取捨故。無亂是菩提常自靜故。善寂是菩提性清淨故。無取是菩提離攀緣故。無異是菩提諸法等故。無比是菩提無可喻故。微妙是菩提諸法難知 故。

世尊。維摩詰說是法時。二百天子得無生法忍。故我不任詣彼問疾。

佛告光嚴童子。汝行詣維摩詰問疾。

光嚴白佛言。世尊。我不堪任詣彼問疾。所以者何。憶念我昔出毘耶離大城。時維摩詰方入城。我即為作禮而問言。居士從何所來。

答我言。吾從道場來。

我問道場者何所是。

答曰。直心是道場無虛假故。發行是道場能辦事故。深心是道場增益功德故。菩提心是道場無錯謬故。布施是道場不望報故。持戒是道場得願具故。忍辱是道場於諸 衆生心無礙故。精進是道場不懈退故。禪定是道場心調柔故。智慧是道場現見諸法故。慈是道場等衆生故。悲是道場忍疲苦故。喜是道場悅樂法故。捨是道場憎愛斷 故。神通是道場成就六通故。解脫是道場能背捨故。

方便是道場教化衆生故。四攝是道場攝衆生故。多聞是道場如聞行故。伏心是道場正觀諸法故。三十七品是道場捨有為法故。四諦是道場不誑世間故。緣起是道場無 明乃至老死皆無盡故。諸煩惱是道場知如實故。衆生是道場知無我故。一切法是道場知諸法空故。降魔是道場不傾動故。三界是道場無所趣故。師子吼是道場無所畏 故。力無畏不共法是道場無諸過故。三明是道場無餘礙故。一念知一切法是道場成就一切智故。

如是善男子。菩薩若應諸波羅密教化衆生。諸有所作舉足下足。當知皆從道場來住於佛法矣。

說是法時五百天人皆發阿耨多羅三藐三菩提心。故我不任詣彼問疾。

佛告持世菩薩。汝行詣維摩詰問疾。

持世白佛言。世尊。我不堪任詣彼問疾。所以者何。憶念我昔住於靜室。時魔波旬從萬二千天女。狀如帝釋鼓樂絃歌來詣我所。與其眷屬稽首我足。合掌恭敬於一面立。我意謂是帝釋。而語之言。善來憍尸迦。雖福應有不當自恣。當觀五欲無常以求善本。於身命財而修堅法。

即語我言。正士。受是萬二千天女可備掃灑。

我言。憍尸迦。無以此非法之物要我沙門釋子。此非我宜。

所言未訖。時維摩詰來謂我言。非帝釋也。是為魔來嬈固汝耳。

即語魔言。是諸女等可以與我。如我應受。

魔即驚懼念。維摩詰將無惱我。欲隱形去而不能隱。盡其神力亦不得去。即聞空中聲曰。波旬。以女與之乃可得去。

魔以畏故俛仰而與。

爾時維摩詰語諸女言。魔以汝等與我。今汝皆當發阿耨多羅三藐三菩提心。

即隨所應而為說法令發道意。

復言。汝等已發道意。有法樂可以自娛。不應復樂五欲樂也。

天女即問。何謂法樂。

答言。樂常信佛。樂欲聽法。樂供養衆。樂離五欲。樂觀五陰如怨賊。樂觀四大如毒蛇。樂觀內入如空聚。樂隨護道意。樂饒益衆生。樂敬養師。樂廣行施。樂堅持 戒。樂忍辱柔和。樂勤集善根。樂禪定不亂。樂離垢明慧。樂廣菩提心。樂降伏衆魔。樂斷諸煩惱。樂淨佛國土。樂成就相好故修諸功德。樂莊嚴道場。樂聞深法不 畏。樂三脫門不樂非時。樂近同學。樂於非同學中心無恚礙。樂將護惡知識。樂親近善知識。樂心喜清淨。樂修無量道品之法。是為菩薩法樂。

於是波旬告諸女言。我欲與汝俱還天宮。

諸女言。以我等與此居士。有法樂我等甚樂。不復樂五欲樂也。

魔言。居士可捨此女。一切所有施於彼者。是為菩薩。

維摩詰言。我已捨矣。汝便將去。令一切衆生得法願具足。

於是諸女問維摩詰。我等云何止於魔宮。

維摩詰言。諸姊有法門名無盡燈。汝等當學。無盡燈者。譬如一燈燃百千燈。冥者皆明。明終不盡。如是諸姊。夫一菩薩開導百千衆生。令發阿耨多羅三藐三菩提 心。於其道意亦不滅盡。隨所說法而自增益一切善法。是名無盡燈也。汝等雖住魔宮。以是無盡燈。令無數天子天女發阿耨多羅三藐三菩提心者。為報佛恩。亦大饒 益一切衆生。

爾時天女。頭面禮維摩詰足。隨魔還宮忽然不現。

世尊。維摩詰有如是自在神力智慧辯才。故我不任詣彼問疾。

佛告長者子善德。汝行詣維摩詰問疾。

善德白佛言。世尊我不堪任詣彼問疾。所以者何。憶念我昔自於父舍設大施會。供養一切沙門婆羅門及諸外道貧窮下賤孤獨乞人。期滿七日。時維摩詰來入會中。謂我言。長者子。夫大施會不當如汝所設。當為法施之會。何用是財施會為。

我言。居士。何謂法施之會。

答曰。法施會者。無前無後。一時供養一切衆生。是名法施之會。

曰。何謂也。

謂以菩提起於慈心。以救衆生。起大悲心。以持正法起於喜心。以攝智慧行於捨心。以攝慳貪起檀波羅密。以化犯戒起尸羅波羅密。以無我法起羼提波羅密。以離身 心相起毘梨耶波羅密。以菩提相起禪波羅密。以一切智起般若波羅密。教化衆生而起於空。不捨有為法而起無相。示現受生而起無作。護持正法起方便力。以度衆生 起四攝法。以敬事一切起除慢法。於身命財起三堅法。於六念中。起思念法。於六和敬起質直心。正行善法起於淨命。心淨歡喜起近賢聖。不憎惡人起調伏心。

以出家法起於深心。以如說行起於多聞。以無諍法起空閑處。趣向佛慧起於宴坐。解衆生縛起修行地。以具相好及淨佛土起福德業。知一切衆生心念如應說法起於智 業。知一切法不取不捨入一相門起於慧業。斷一切煩惱一切障礙一切不善法起一切善業。以得一切智慧一切善法起於一切助佛道法。如是善男子。是為法施之會。若 菩薩住是法施會者。為大施主。亦為一切世間福田。

世尊。維摩詰說是法時。婆羅門衆中二百人皆發阿耨多羅三藐三菩提心。我時心得清淨歎未曾有。稽首禮維摩詰足。即解瓔珞價直百千。以上之。不肯取。我言居士。願必納受隨意所與。

維摩詰乃受瓔珞分作二分。持一分施此會中一最下乞人。持一分奉彼難勝如來。一切衆會皆見光明國土難勝如來。又見珠瓔在彼佛上變成四柱寶臺四面嚴飾不相障蔽。

時維摩詰。現神變已作是言。若施主等心施一最下乞人。猶如如來福田之相無所分別。等於大悲不求果報。是則名曰具足法施。

城中一最下乞人。見是神力聞其所說。皆發阿耨多羅三藐三菩提心。故我不任詣彼問疾。

如是諸菩薩各各向佛說其本緣。稱述維摩詰所言。皆曰不任詣彼問疾。


Bồ Tát Phẩm
Đệ tứ

Ư thị, Phật cáo Di-lặc Bồ Tát: Nhữ hành nghệ Duy-ma-cật vấn tật.

Di-lặc bạch Phật ngôn: Thế Tôn! Ngã bất kham nhiệm nghệ bỉ vấn tật. Sở dĩ giả hà? Ức niệm ngã tích, vị Đâu-suất Thiên vương, cập kỳ quyến thuộc thuyết Bất thối chuyển địa chi hạnh. Thời, Duy-ma-cật lai vị ngã ngôn: Di-lặc! Thế Tôn thọ nhân giả ký: nhất sinh đương đắc A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Vi dụng hà sinh đắc thọ ký hồ? Quá khứ da? Vị lai da? Hiện tại da? Nhược quá khứ sinh, quá khứ sinh dĩ diệt. Nhược vị lai sinh, vị lai sinh vị chí. Nhược hiện tại sinh, hiện tại sinh vô trụ. Như Phật sở thuyết: Tỳ-kheo! Nhữ kim tức thời diệc sinh, diệc lão, diệc diệt. Nhược dĩ vô sinh đắc thọ ký giả, vô sinh tức thị chánh vị. Ư chánh vị trung, diệc vô thọ ký, diệc vô đắc A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.

Vân hà Di-lặc thọ nhất sinh ký hồ? Vi tùng như sinh đắc thọ ký da? Vi tùng như diệt đắc thọ ký da? Nhược dĩ như sinh đắc thọ ký giả, như vô hữu sinh. Nhược dĩ như diệt đắc thọ ký giả, như vô hữu diệt. Nhất thiết chúng sinh giai như dã. Nhất thiết pháp diệc như dã. Chúng thánh hiền diệc như dã. Chí ư Di-lặc diệc như dã. Nhược Di-lặc đắc thọ ký giả, nhất thiết chúng sinh diệc ưng thọ ký. Sở dĩ giả hà? Phù như giả, bất nhị, bất dị. Nhược Di-lặc đắc A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề giả, nhất thiết chúng sinh giai diệc ưng đắc. Sở dĩ giả hà? Nhất thiết chúng sinh tức Bồ-đề tướng. Nhược Di-lặc đắc diệt độ giả, nhất thiết chúng sinh diệc ưng diệt độ. Sở dĩ giả hà? Chư Phật tri nhất thiết chúng sinh tất cánh tịch diệt, tức Niết-bàn tướng, bất phục cánh diệt.

Thị cố Di-lặc, vô dĩ thử pháp dụ chư thiên tử. Thật vô phát A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề tâm giả, diệc vô thối giả.

Di-lặc! Đương linh thử chư thiên tử xả ư phân biệt Bồ-đề chi kiến. Sở dĩ giả hà? Bồ-đề giả, bất khả dĩ thân đắc, bất khả dĩ tâm đắc. Tịch diệt thị Bồ-đề, diệt chư tướng cố. Bất quán thị Bồ-đề, ly chư duyên cố. Bất hành thị Bồ-đề, vô ức niệm cố. Đoạn thị Bồ-đề, xả chư kiến cố. Ly thị Bồ-đề, ly chư vọng tưởng cố. Chướng thị Bồ-đề, chướng chư nguyện cố. Bất nhập thị Bồ-đề, vô tham trước cố. Thuận thị Bồ-đề, thuận ư như cố. Trụ thị Bồ-đề, trụ pháp tánh cố. Chí thị Bồ-đề, chí thật tế cố. Bất nhị thị Bồ-đề, ly ý pháp cố. Đẳng thị Bồ-đề, đẳng hư không cố. Vô vi thị Bồ-đề, vô sinh trụ diệt cố. Tri thị Bồ-đề, liễu chúng sinh tâm hạnh cố. Bất hội thị Bồ-đề, chư nhập bất hội cố. Bất hiệp thị Bồ-đề, ly phiền não tập cố. Vô xứ thị Bồ-đề, vô hình sắc cố. Giả danh thị Bồ-đề, danh tự không cố. Như hóa thị Bồ-đề, vô thủ xả cố. Vô loạn thị Bồ-đề, thường tự tĩnh cố. Thiện tịch thị Bồ-đề, tánh thanh tịnh cố. Vô thủ thị Bồ-đề, ly phan duyên cố. Vô dị thị Bồ-đề, chư pháp đẳng cố. Vô tỷ thị Bồ-đề, vô khả dụ cố. Vi diệu thị Bồ-đề, chư pháp nan tri cố.

Thế Tôn! Duy-ma-cật thuyết thị pháp thời, nhị bá thiên tử đắc vô sinh pháp nhẫn. Cố ngã bất nhiệm nghệ bỉ vấn tật.

Phật cáo Quang Nghiêm Đồng tử: Nhữ hành nghệ Duy-ma-cật vấn tật.

Quang Nghiêm bạch Phật ngôn: Thế Tôn! Ngã bất kham nhiệm nghệ bỉ vấn tật. Sở dĩ giả hà? Ức niệm ngã tích, xuất Tỳ-da-ly đại thành. Thời, Duy-ma-cật phương nhập thành. Ngã tức vị tác lễ nhi vấn ngôn: Cư sĩ tùng hà sở lai?

Đáp ngã ngôn: Ngô tùng đạo trường lai.

Ngã vấn: Đạo trường giả hà sở thị?

Đáp viết: Trực tâm thị đạo trường, vô hư giả cố. Phát hành thị đạo trường, năng biện sự cố. Thâm tâm thị đạo trường, tăng ích công đức cố. Bồ-đề tâm thị đạo trường, vô thác mậu cố. Bố thí thị đạo trường, bất vọng báo cố. Trì giới thị đạo trường, đắc nguyện cụ cố. Nhẫn nhục thị đạo trường, ư chư chúng sinh, tâm vô ngại cố. Tinh tấn thị đạo trường, bất giải đãi cố. Thiền định thị đạo trường, tâm điều nhu cố. Trí huệ thị đạo trường, hiện kiến chư pháp cố. Từ thị đạo trường, đẳng chúng sinh cố. Bi thị đạo trường, nhẫn bì khổ cố. Hỷ thị đạo trường, duyệt lạc pháp cố. Xả thị đạo trường, tắng ái đoạn cố. Thần thông thị đạo trường, thành tựu lục thông cố. Giải thoát thị đạo trường, năng bội xả cố.

Phương tiện thị đạo trường, giáo hóa chúng sinh cố. Tứ nhiếp thị đạo trường, nhiếp chúng sinh cố. Đa văn thị đạo trường, như văn hành cố. Phục tâm thị đạo trường, chánh quán chư pháp cố. Tam thập thất phẩm thị đạo trường, xả hữu vi pháp cố. Tứ đế thị đạo trường, bất cuống thế gian cố. Duyên khởi thị đạo trường, vô minh nãi chí lão tử, giai vô tận cố. Chư phiền não thị đạo trường, tri như thật cố. Chúng sinh thị đạo trường, tri vô ngã cố. Nhất thiết pháp thị đạo trường, tri chư pháp không cố. Hàng ma thị đạo trường, bất khuynh động cố. Tam giới thị đạo trường, vô sở thú cố. Sư tử hống thị đạo trường, vô sở úy cố. Lực vô úy, bất cộng pháp thị đạo trường, vô chư quá cố. Tam minh thị đạo trường, vô dư ngại cố. Nhất niệm tri nhất thiết pháp thị đạo trường, thành tựu nhất thiết trí cố.

Như thị thiện nam tử! Bồ Tát nhược ưng chư ba-la-mật giáo hóa chúng sinh, chư hữu sở tác, cử túc hạ túc, đương tri giai tùng đạo trường lai, trụ ư Phật Pháp hỷ.

Thuyết thị pháp thời, ngũ bá thiên nhân, giai phát A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề tâm. Cố ngã bất nhiệm nghệ bỉ vấn tật.

Phật cáo Trì Thế Bồ Tát: Nhữ hành nghệ Duy-ma-cật vấn tật.

Trì Thế bạch Phật ngôn: Thế Tôn! Ngã bất kham nhiệm nghệ bỉ vấn tật. Sở dĩ giả hà? Ức niệm ngã tích, trụ ư tĩnh thất. Thời, ma Ba-tuần, tùng vạn nhị thiên thiên nữ, trạng như Đế-thích, cổ nhạc huyền ca, lai nghệ ngã sở. Dữ kỳ quyến thuộc, khể thủ ngã túc, hiệp chưởng cung kính, ư nhất diện lập. Ngã ý vị thị Đế-thích, nhi ngứ chi ngôn: Thiện lai, Kiều-thi-ca! Tuy phước ưng hữu, bất đương tự tứ. Đương quán ngũ dục vô thường. Dĩ cầu thiện bổn, ư thân, mạng, tài, nhi tu kiên pháp.

Tức ngứ ngã ngôn: Chánh sĩ! Thọ thị vạn nhị thiên thiên nữ, khả bị tảo sái.

Ngã ngôn: Kiều-thi-ca! Vô dĩ thử phi pháp chi vật, yêu ngã sa-môn Thích tử. Thử phi ngã nghi.

Sở ngôn vị ngật, thời Duy-ma-cật lai, vị ngã ngôn: Phi Đế-thích dã. Thị vi ma lai, nhiễu cố nhữ nhĩ.

Tức ngứ ma ngôn: Thị chư nữ đẳng, khả dĩ dữ ngã. Như ngã ưng thọ.

Ma tức kinh cụ, niệm: Duy-ma-cật tương vô não ngã? Dục ẩn hình khứ, nhi bất năng ẩn. Tận kỳ thần lực, diệc bất đắc khứ. Tức văn không trung thanh viết: Ba-tuần! Dĩ nữ dữ chi, nãi khả đắc khứ.

Ma dĩ úy cố, miễn ngưỡng nhi dữ.

Nhĩ thời, Duy-ma-cật ngứ chư nữ ngôn: Ma dĩ nhữ đẳng dữ ngã. Kim nhữ giai đương phát A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề tâm.

Tức tùng sở ứng nhi vị thuyết pháp, linh phát đạo ý.

Phục ngôn: Nhữ đẳng dĩ phát đạo ý. Hữu pháp lạc khả dĩ tự ngu. Bất ưng phục nhạo ngũ dục lạc dã.

Thiên nữ tức vấn: Hà vị pháp lạc?

Đáp ngôn: Lạc thường tín Phật. Lạc dục thính Pháp. Lạc cúng dường chúng. Lạc ly ngũ dục. Lạc quán ngũ ấm như oán tặc. Lạc quán tứ đại như độc xà. Lạc quán nội nhập như không tụ. Lạc tùy hộ đạo ý. Lạc nhiêu ích chúng sinh. Lạc kính dưỡng sư. Lạc quảng hành thí. Lạc kiên trì giới. Lạc nhẫn nhục nhu hòa. Lạc cần tập thiện căn. Lạc thiền định bất loạn. Lạc ly cấu minh huệ. Lạc quảng Bồ-đề tâm. Lạc hàng phục chúng ma. Lạc đoạn chư phiền não. Lạc tịnh Phật quốc độ. Lạc thành tựu tướng hảo cố, tu chư công đức. Lạc trang nghiêm đạo trường. Lạc văn thâm pháp bất úy. Lạc tam thoát môn, bất lạc phi thời. Lạc cận đồng học. Lạc ư phi đồng học trung tâmquái ngại. Lạc tương hộ ác tri thức. Lạc thân cận thiện tri thức. Lạc tâm hỷ thanh tịnh. Lạc tu vô lượng đạo phẩm chi pháp. Thị vi Bồ Tát pháp lạc.

Ư thị, Ba-tuần cáo chư nữ ngôn: Ngã dục dữ nhữ câu hoàn thiên cung.

Chư nữ ngôn: Dĩ ngã đẳng dữ thử cư sĩ. Hữu pháp lạc, ngã đẳng thậm lạc. Bất phục nhạo ngũ dục lạc dã.

Ma ngôn: Cư sĩ! Khả xả thử nữ. Nhất thiết sở hữu thí ư bỉ giả, thị vi Bồ Tát.

Duy-ma-cật ngôn: Ngã dĩ xả hỷ. Nhữ tiện tương khứ. Linh nhất thiết chúng sinh đắc pháp nguyện cụ túc.

Ư thị, chư nữ vấn Duy-ma-cật: Ngã đẳng vân hà chỉ ư ma cung?

Duy-ma-cật ngôn: Chư tỷ! Hữu pháp môn danh Vô tận đăng, nhữ đẳng đương học. Vô tận đăng giả, thí như nhất đăng, nhiên bá thiên đăng. Minh giả giai minh, minh chung bất tận. Như thị chư tỷ: phù nhất Bồ Tát khai đạo bá thiên chúng sinh, linh phát A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề tâm. Ư kỳ đạo ý, diệc bất diệt tận. Tùy sở thuyết pháp, nhi tự tăng ích nhất thiết thiện pháp. Thị danh Vô tận đăng dã. Nhữ đẳng tuy trụ ma cung, dĩ thị Vô tận đăng, linh vô số thiên tử, thiên nữ phát A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề tâm giả. Vị báo Phật ân, diệc đại nhiêu ích nhất thiết chúng sinh.

Nhĩ thời, thiên nữ đầu diện lễ Duy-ma-cật túc, tùy ma hoàn cung. Hốt nhiên bất hiện.

Thế Tôn! Duy-ma-cật hữu như thị tự tại thần lực, trí huệ biện tài. Cố ngã bất nhiệm nghệ bỉ vấn tật.

Phật cáo Trưởng giả tử Thiện Đức: Nhữ hành nghệ Duy-ma-cật vấn tật.

Thiện Đức bạch Phật ngôn: Thế Tôn! Ngã bất kham nhiệm nghệ bỉ vấn tật. Sở dĩ giả hà? Ức niệm ngã tích, tự ư phụ xá, thiết đại thí hội, cúng dường nhất thiết sa-môn, bà-la-môn cập chư ngoại đạo, bần cùng, hạ tiện, cô độc, khất nhân. Kỳ mãn thất nhật. Thời, Duy-ma-cật lai, nhập hội trung, vị ngã ngôn: Trưởng giả tử! Phù đại thí hội, bất đương như nhữ sở thiết. Đương vi pháp thí chi hội. Hà dụng thị tài thí hội vi?

Ngã ngôn: "Cư sĩ, hà vị pháp thí chi hội?

Đáp viết: Pháp thí hội giả, vô tiền vô hậu. Nhất thời cúng dường nhất thiết chúng sinh. Thị danh pháp thí chi hội.

Viết: Hà vị dã?

Vị dĩ Bồ-đề, khởi ư từ tâm. Dĩ cứu chúng sinh, khởi đại bi tâm. Dĩ trì Chánh pháp, khởi ư hỷ tâm. Dĩ nhiếp trí huệ, hành ư xả tâm. Dĩ nhiếp khan tham, khởi Đàn ba-la-mật. Dĩ hóa phạm giới, khởi Thi-la ba-la-mật. Dĩ vô ngã pháp, khởi Sằn-đề ba-la-mật. Dĩ ly thân tâm tướng, khởi Tỳ-lê-da ba-la-mật. Dĩ Bồ-đề tướng, khởi Thiền ba-la-mật. Dĩ nhất thiết trí, khởi Bát-nhã ba-la-mật. Giáo hóa chúng sinh, nhi khởi ư không. Bất xả hữu vi pháp, nhi khởi vô tướng. Thị hiện thọ sinh, nhi khởi vô tác. Hộ trì Chánh pháp, khởi phương tiện lực. Dĩ độ chúng sinh, khởi Tứ nhiếp pháp, Dĩ kính sự nhất thiết, khởi trừ mạn pháp. Ư thân, mạng, tài, khởi Tam kiên pháp. Ư lục niệm trung, khởi tư niệm pháp. Ư lục hòa kính, khởi chất trực tâm. Chánh hành thiện pháp, khởi ư tịnh mạng. Tâm tịnh hoan hỷ, khởi cận hiền thánh. Bất tắng ác nhân, khởi điều phục tâm.

xuất gia pháp, khởi ư thâm tâm. Dĩ như thuyết hành, khởi ư đa văn. Dĩ vô tranh pháp, khởi không nhàn xứ. Thú hướng Phật huệ, khởi ư yến tọa. Giải chúng sinh phược, khởi tu hành địa. Dĩ cụ tướng hảo cập tịnh Phật độ, khởi phước đức nghiệp. Tri nhất thiết chúng sinh tâm niệm, như ứng thuyết pháp, khởi ư trí nghiệp. Tri nhất thiết pháp bất thủ bất xả, nhập nhất tướng môn, khởi ư huệ nghiệp. Đoạn nhất thiết phiền não, nhất thiết chướng ngại, nhất thiết bất thiện pháp, khởi nhất thiết thiện nghiệp. Dĩ đắc nhất thiết trí huệ, nhất thiết thiện pháp, khởi ư nhất thiết trợ Phật đạo pháp. Như thị, thiện nam tử! Thị vi pháp thí chi hội. Nhược Bồ Tát trụ thị pháp thí hội giả, vi đại thí chủ, diệc vi nhất thiết thế gian phước điền.

Thế Tôn! Duy-ma-cật thuyết thị pháp thời, bà-la-môn chúng trung nhị bá nhân, giai phát A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề tâm. Ngã thời, tâm đắc thanh tịnh, thán vị tằng hữu. Khể thủ lễ Duy-ma-cật túc. Tức giải anh lạc giá trị bá thiên dĩ thướng chi. Bất khẳng thủ. Ngã ngôn: Cư sĩ, nguyện tất nạp thọ, tùy ý sở dữ.

Duy-ma-cật nãi thọ anh lạc, phân tác nhị phần. Trì nhất phần, thí thử hội trung nhất tối hạ khất nhân. Trì nhất phần phụng bỉ Nan Thắng Như Lai. Nhất thiết chúng hội giai kiến quang minh quốc độ Nan Thắng Như Lai. Hựu kiến châu anh tại bỉ Phật thượng, biến thành tứ trụ bảo đài, tứ diện nghiêm sức, bất tương chướng tế.

Thời, Duy-ma-cật hiện thần biến dĩ, hựu tác thị ngôn: Nhược thí chủ đẳng tâm, thí nhất tối hạ khất nhân, du như Như Lai phước điền chi tướng, vô sở phân biệt, đẳng ư đại bi, bất cầu quả báo. Thị tắc danh viết cụ túc pháp thí.

Thành trung nhất tối hạ khất nhân, kiến thị thần lực, văn kỳ sở thuyết, giai phát A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề tâm. Cố ngã bất nhiệm nghệ bỉ vấn tật.

Như thị chư Bồ Tát, các các hướng Phật, thuyết kỳ bổn duyên, xưng thuật Duy-ma-cật sở ngôn, giai viết: Bất nhiệm nghệ bỉ vấn tật.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 49719)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 34616)
Nếu kẻ nam tử người nữ nhơn thân có tai ách, trong nhà nên an trí tháp xá-lợi và hình tượng Phật, họa vẽ tượng đức Văn-thù-sư-lợi Đồng tử, thiêu các thứ hương...
(Xem: 33436)
Phật dạy A-nan: “Đời quá khứ, cõi Diêm-phù-đề này có một vị Tỳ-khưu tên là Truyền Giáo. Ngày 15 tháng chín đi du hành về phương Bắc, cách nước Chi Na không xa...
(Xem: 43910)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 57037)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 47545)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 39414)
Bát Thức Quy Củ Tụng - Những bài tụng khuôn mẫu giảng về tám thức tâm vương; tác giả: Huyền Trang; người toát yếu: Khuy Cơ, người dịch giảng: HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 38467)
Quyển "Vi Diệu Pháp Nhập Môn" ngoài tác dụng của bộ sách giáo Khoa Phật Học; còn là cuốn sách đầu giường của học giả nghiên cứu về Triết lý Ấn độ, cũng như Văn Học A Tỳ Ðàm...
(Xem: 52923)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh...Nguyễn Minh Tiến; Đoàn Trung Còn
(Xem: 36591)
Như Lai là bậc A-la-hán, chánh đẳng chánh giác, dùng pháp thắng tri (tuệ tri: biết sát na hiện tiền) hay pháp chánh tri kiến để liễu tri sự vật, không dục hỷ...
(Xem: 32234)
Nếu có ai hỏi ngài Duy Ma Cật: “Bản thể của thế giới này là gì?” thì trước sự im lặng của ngài Duy Ma Cật mà lại được Văn Thù Sư Lợi hết sức tán thưởng là có ý nghĩa sâu xa của nó.
(Xem: 40449)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43474)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 31440)
Nakulapita là một người chủ gia đình sinh sống trong vùng Bhagga, đã trọng tuổithường hay đau yếu. Ông rất kính mến Đức PhậtĐức Phật cũng xem ông như một người con của mình.
(Xem: 46699)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 36179)
Sự kiện Đức Phật chấp nhận thành lập giáo hội Tỳ kheo ni, nâng vị trí người nữ đến mức quan trọng nhất, là việc làm duy nhất và chưa từng thấy trong lịch sử tôn giáo...
(Xem: 28686)
"Có một lần Đấng Thế Tôn lưu ngụ với những người dân trong vùng Bhagga, gần thị trấn Sumsumaragiri, thuộc khu rừng Lộc Uyển...
(Xem: 29217)
Cách tốt nhất để mang lại sự an ổn cho bản thân là hướng về điều thiện, và quy y Tam bảo là nền tảng đầu tiên cho một cuộc sống hướng thiện.
(Xem: 31881)
Lúc bấy giờ, rừng cây Ta La ở thành Câu Thi Na, rừng ấy biến thành màu trắng giống như con hạc trắng. Ở trong hư không tự nhiên mà có tòa lầu các bảy báu với những hoa văn...
(Xem: 28804)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Các vị Đại Bồ Tát nên hàng phục tâm như thế này: ‘Đối với tất cả các loài chúng sinh, hoặc sinh từ bào thai, hoặc sinh từ trứng, hoặc sinh nơi ẩm thấp, hoặc do biến hóa sinh ra...
(Xem: 33351)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0376, Hán dịch: Đời Đông Tấn, Sa-môn Pháp Hiển, Việt dịch: Thích Nguyên Hùng
(Xem: 29117)
Gương trí vằng vặc của Như Lai cũng như thế, là pháp giới vắng lặng không có gián đoạn không có dao động, vì muốn giúp vô lượng vô số chúng sanh thấy rõ nhiễm-tịnh...
(Xem: 60971)
Kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni - một trong các pháp môn - là trí ấn của tất cả Như Lai, mầu nhiệm rộng sâu, khác chi thuyền bè trong biển ba đào, nhật nguyệt giữa trời u ám.
(Xem: 39725)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 26653)
Phật tử có nghĩa là tự nguyện theo Tam quy (ti-sarana), Ngũ giới (pañca-sila), tức là nương tựa vào Tam bảo (ti-ratana) và giữ gìn năm giới căn bản của đạo Phật.
(Xem: 29646)
Trong Kiến Đàn Giải Uế Nghi của Thủy Lục Chư Khoa có lời tán thán bồ tát Quán Thế Âm rằng: “Nhân tu sáu độ, quả chứng một thừa, thệ nguyện rộng sâu như biển lớn mênh mông không thể đo lường...
(Xem: 37357)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40075)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 26828)
Nếu các chúng sanh ác tâm hướng nhau, hãy xưng danh hiệu Địa Tạng Bồ-tát, nhất tâm quy y, khiến chúng sanh kia nhu hòa nhẫn nhục, hổ thẹn với nhau, từ tâm sám hối...
(Xem: 42644)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 37272)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 28278)
Sự hiện hữa của các pháp trên mặt hiện tượng của tướng đó là một sự hiện hữu giả hợp do duyên và, mặt khác tánh của chúng là Không cũng do duyên mang lại.
(Xem: 28891)
Bàn tay cầm chiếc chìa khóa vô thườngchánh niệm. Dùng hơi thở chánh niệm ta tiếp xúc với mọi sự vật, quán chiếu và thấy được tính vô thường của mọi sự vật.
(Xem: 26389)
Này các thầy! Tánh Không thì rỗng không, không vọng tưởng, không sanh, không diệt, lìa tất cả tri kiến. Vì sao? Vì tánh Không không có nơi chốn, không thuộc sắc tướng...
(Xem: 27156)
Phật dạy: Tự tính của Không là không nằm trên bình diện có không, không nằm trong khuôn khổ các vọng tưởng, không có tướng sinh, không có tướng diệt, và vượt thoát mọi tri kiến.
(Xem: 26180)
Đức Phật thấy rõ bản chất của phiền não tham, sân, si là nguồn gốc khổ đau, Ngài chế ra ba phương thuốc Giới-Định-Tuệ để chữa tâm bệnh tham, sân, si cho chúng sinh...
(Xem: 34612)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 27797)
Tôi nghĩ nhiệm vụ quan trọng nhất của bất cứ một hành giả của một tôn giáo nào là thẩm tra chính họ trong tâm hồn của chính họ và cố gắng để chuyển hóa thân thể, lời nói
(Xem: 30460)
Bụt là bậc có Nhất Thiết Trí, bản chất của Người là đại nhân từ, vì thương xót nhân gian cho nên mới xuất hiện trên cuộc đời này để mở bày đạo nghĩa, giải cứu cho con người.
(Xem: 33275)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 28552)
Khi Phật thành đạo là do đạt được Trí Tuệ hay Giác Trí Tuệ thì các pháp giải thoát được thiết lập thực hành Giác Trí Tuệ trong các thời thiền tập.
(Xem: 30059)
Khi tuệ giác nội quán của chúng ta vào trong bản chất tối hậu của thực tạiTính Không được sâu sắc và nâng cao, chúng ta sẽ phát triển một nhận thức về thực tại...
(Xem: 25476)
Thông thường mà nói Bát Nhã có ba ý nghĩa. Thứ nhất là thực tướng, tướng là tướng trạng, thực tướng chính là hình ảnh chân thực. Nghĩa thứ hai là quán chiếu Bát Nhã, cũng chính là chỗ dụng của thực tướng.
(Xem: 21839)
Trong lời phàm lệ của quyển Tứ phần giới bổn như thích, Luật sư Hoằng Tán (1611-1685) nói: "Tam thế chư Phật câu thuyết Kinh-Luật-Luận tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 51282)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 26710)
Tận cùng tư duy của Đạo Phật quan tâm, định luật căn bản là: chúng ta muốn hạnh phúc. Quyền căn bản của chúng tađạt được hạnh phúc.
(Xem: 28617)
Khi chúng ta nói về từ bi, thật đáng khuyến khích để lưu ý rằng bản chất tự nhiên của con người, tôi tin, là từ bihiền lành.
(Xem: 27691)
Thế Tôn, nếu có người nghe được kinh này mà có lòng tin thanh tịnhđạt được cái thấy chân thật thì nên biết người ấy đã thực hiện được công đức hiếm có vào bậc nhất.
(Xem: 24344)
Tự tánh giả danh hay tùy thuộc cũng nằm trong phạm trù Tánh không. Tự tánh giả danh được thể hiện tướng sanh diệt do tác động thời gian thì có sanh có diệt...
(Xem: 27452)
Tuệ quán là tri nhận một cách sáng suốt, vô thời gian. Vì lẽ chơn thức (tri giác nguyên sơ) là một điểm nhận thức có thật trong động tác nhận thức đầu nguồn của tri giác.
(Xem: 31918)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 30175)
Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có thiện nam, thiện nữ nào muốn vì chúng sinh mà nói kinh Pháp Hoa này thời thiện nam hay thiện nữ ấy phải vào nhà Như Lai... Pháp sư Thích Thiện Trí
(Xem: 27691)
“Dược Sư Lưu Ly Quang” là tên gọi của đức Phật này; “Như Lai” là một trong mười tôn hiệu của mỗi vị Phật; “Bổn Nguyện” là các lời phát nguyện của đức Phật này khi Ngài phát tâm Bồ-đề...
(Xem: 35428)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 27433)
Ngày nay, Kinh Chuyển Pháp Luân thuộc Tương Ưng Sự ThậtTương Ưng Bộ SN 56.11 trong kinh điển Pali được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật.
(Xem: 30000)
Để tìm về tính nguyên thủy ấy, lẽ tự nhiên là ta cần khảo sát cẩn trọng bản kinh được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật. Đó là Kinh Như Lai Thuyết...
(Xem: 31760)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 23011)
Kinh Điềm Lành (Mangala Sutta) -- còn có tên là kinh Phước Đức hay kinh Hạnh Phúc -- là bài kinh số 5 trong Tiểu Tụng (Khuddakapātha), thuộc Tiểu Bộ (Khuddhaka Nikāya).
(Xem: 24176)
Cách mà chúng ta đang sống sẽ là một trong các nhân tố chính yếu có thể mang lại cho chúng ta sự thanh thảnđiềm tĩnh trong giây phút lâm chung.
(Xem: 23012)
Kinh này có tám phương pháp tu hành thành Phật, mà bậc Đại nhân gánh vác sự nghiệp lớn liễu sinh thoát tử, hóa độ chúng sinh cần phải giác ngộ, nên gọi là Kinh Tám Điều Giác Ngộ Của Bậc Đại Nhân.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant