Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

7. Bất khả tư nghị phẩm - Đệ lục

03 Tháng Ba 201100:00(Xem: 7879)
7. Bất khả tư nghị phẩm - Đệ lục

KINH DUY-MA-CẬT (Hán-Việt)
Đoàn Trung Còn - Nguyễn Minh Tiến dịch và chú giải

DUY-MA-CẬT SỞ THUYẾT KINH

QUYỂN TRUNG

Bất khả tư nghị phẩm - Đệ lục

不 思 議 品
第 六

爾時舍利弗。見此室中無有牀座。作是念。斯諸菩薩大弟子衆當於何坐。

長者維摩詰知其意。語舍利弗言。云何仁者為法來耶為牀座耶。

舍利弗言。我為法來非為牀座。

維摩詰言。唯舍利弗。夫求法者不貪軀命。何況牀座。

夫求法者。非有色受想行識之求。非有入界之求。非有欲色無色之求。

唯舍利弗。夫求法者。不著佛求不著法求不著衆求。

夫求法者。無見苦求。無斷集求。無造盡證修道之求。所以者何。法無戲論。若言我當見苦斷集證滅修道。是則戲論非求法也。

唯舍利弗。法名寂滅。若行生滅是求生滅非求法也。

法名無染。若染於法乃至涅槃。是則染著非求法也。

法無行處。若行於法是則行處非求法也。

法無取捨。若取捨法是則取捨非求法也。

法無處所。若著處所。是則著處非求法也。

法名無相。若隨相識是則求相非求法也。

法不可住。若住於法是則住法非求法也。

法不可見聞覺知。若行見聞覺知是則見聞覺知非求法也。

法名無為。若行有為是求有為非求法也。

是故舍利弗。若求法者。於一切法應無所求。

說是語時。五百天子於諸法中得法眼淨。

爾時長者維摩詰問文殊師利。仁者遊於無量千萬億阿僧祇國。何等佛土有好上妙功德成就師子之座。

文殊師利言。居士。東方度三十六恒河沙國有世界。名須彌相。其佛號須彌燈王今現在。彼佛身長八萬四千由旬。其師子座高八萬四千由旬嚴飾第一。

於是長者維摩詰。現神通力。即時彼佛遣三萬二千師子之座高廣嚴淨來入維摩詰室。諸菩薩大弟子釋梵四天王等昔所未見。其室廣博悉皆包容三萬二千師子座。無所妨礙。於毘耶離城及閻浮提四天下亦不迫迮。悉見如故。

爾時維摩詰語文殊師利。就師子座。與諸菩薩上人俱坐。當自立身如彼座像。其得神通菩薩即自變形。為四萬二千由旬坐師子座。諸新發意菩薩及大弟子皆不能昇。

爾時維摩詰語舍利弗。就師子座。

舍利弗言。居士。此座高廣吾不能昇。

維摩詰言。唯舍利弗。為須彌燈王如來作禮乃可得坐。

於是新發意菩薩及大弟子即為須彌燈王如來作禮。便得坐師子座。

舍利弗言。居士未曾有也。如是小室乃容受此高廣之座。於毘耶離城無所妨礙。又於閻浮提聚落城邑及四天下諸天龍王鬼神宮殿。亦不迫迮。

維摩詰言。唯舍利弗。諸佛菩薩有解脫名不可思議。若菩薩住是解脫者。以須彌之高廣内芥子中無所增減。須彌山王本相如故。而四天王忉利諸天。不覺不知己之所入。唯應度者乃見須彌入芥子中。是名不可思議解脫法門。

又以四大海水入一毛孔。不嬈魚鱉黿鼉水性之屬。而彼大海本相如故。諸龍鬼神阿修羅等不覺不知己之所入。於此衆生亦無所嬈。

又舍利弗。住不可思議解脫菩薩。斷取三千大千世界如陶家輪著右掌中。擲過恒河沙世界之外。其中衆生不覺不知己之所往。又復還置本處。都不使人有往來想。而此世界本相如故。

又舍利弗。或有衆生樂久住世而可度者。菩薩即演七日以為一劫。令彼衆生謂之一劫。或有衆生不樂久住而可度者。菩薩即促一劫以為七日。令彼衆生謂之七日。

又舍利弗。住不可思議解脫菩薩。以一切佛土嚴飾之事。集在一國示於衆生。又菩薩以一切佛土衆生置之右掌。飛到十方遍示一切。而不動本處。

又舍利弗十方衆生供養諸佛之具。菩薩於一毛孔皆令得見。又十方國土所有日月星宿。於一毛孔普使見之。

又舍利弗。十方世界所有諸風。菩薩悉能吸著口中而身無損。外諸樹木亦不摧折。

又十方世界劫盡燒時。以一切火内於腹中。火事如故而不為害。又於下方過恒河沙等諸佛世界。取一佛土舉著上方。過恒河沙無數世界。如持鍼鋒舉一棗葉而無所嬈。

又舍利弗。住不可思議解脫菩薩。能以神通現作佛身。或現辟支佛身。或現聲聞身。或現帝釋身。或現梵王身。或現世主身。或現轉輪王身。又十方世界所有衆聲。上中下音皆能變之令作佛聲。演出無常苦空無我之音。及十方諸佛所說種種之法。皆於其中。普令得聞。

舍利弗。我今略說菩薩不可思議解脫之力。若廣說者窮劫不盡。

是時大迦葉。聞說菩薩不可思議解脫法門。歎未曾有。謂舍利弗。譬如有人於盲者前現衆色像非彼所見。一切聲聞聞是不可思議解脫法門不能解了為若此也。智者聞 是。其誰不發阿耨多羅三藐三菩提心。我等何為永絕其根。於此大乘已如敗種。一切聲聞聞是不可思議解脫法門。皆應號泣聲震三千大千世界。一切菩薩應大欣慶頂 受此法。若有菩薩信解不可思議解脫法門者。一切魔衆無如之何。

大迦葉說此語時。三萬二千天子皆發阿耨多羅三藐三菩提心。

爾時維摩詰語大迦葉。仁者。十方無量阿僧祇世界中作魔王者。多是住不可思議解脫菩薩。以方便力故教化衆生現作魔王。

又迦葉。十方無量菩薩。或有人從乞手足耳鼻頭目髓腦血肉皮骨聚落城邑妻子奴婢象馬車乘金銀瑠璃車磲瑪瑙珊瑚琥珀真珠珂貝衣服飲食。如此乞者多是住不可思議 解脫菩薩。以方便力而往試之令其堅固。所以者何。住不可思議解脫菩薩。有威德力故行逼迫。示諸衆生如是難事。凡夫下劣無有力勢。不能如是逼迫菩薩。譬如龍 象蹴踏非驢所堪。是名住不可思議解脫菩薩智慧方便之門。


Bất Tư Nghị Phẩm
Đệ lục

Nhĩ thời, Xá-lỵ-phất kiến thử thất trung, vô hữu sàng tọa, tác thị niệm: Tư chư Bồ Tát, đại đệ tử chúng đương ư hà tọa?

Trưởng giả Duy-ma-cật, tri kỳ ý, ngứ Xá-lỵ-phất ngôn: Vân hà nhân giả vị pháp lai da? Vị sàng tọa da?

Xá-lỵ-phất ngôn: Ngã vị pháp lai, phi vị sàng tọa.

Duy-ma-cật ngôn: Duy, Xá-lỵ-phất! Phù cầu pháp giả, bất tham xu mạng, hà huống sàng tọa?

Phù cầu pháp giả, phi hữu sắc, thọ, tưởng, hành, thức chi cầu. Phi hữu nhập, giới chi cầu. Phi hữu dục, sắc, vô sắc chi cầu.

Duy, Xá-lỵ-phất! Phù cầu pháp giả, bất trước Phật cầu. Bất trước Pháp cầu. Bất trước Chúng cầu.

Phù cầu pháp giả, vô kiến khổ cầu. Vô đoạn tập cầu. Vô tạo tận chứng, tu đạo chi cầu. Sở dĩ giả hà? Pháp vô hý luận. Nhược ngôn: Ngã đương kiến khổ, đoạn tập, chứng diệt, tu đạo. Thị tắc hý luận, phi cầu pháp dã.

Duy, Xá-lỵ-phất! Pháp danh tịch diệt. Nhược hành sinh diệt, thị cầu sinh diệt, phi cầu pháp dã.

Pháp danh vô nhiễm. Nhược nhiễm ư pháp, nãi chí Niết-bàn, thị tắc nhiễm trước, phi cầu pháp dã.

Pháp vô hành xứ. Nhược hành ư pháp, thị tắc hành xứ, phi cầu pháp dã.

Pháp vô thủ xả. Nhược thủ xả pháp, thị tắc thủ xả, phi cầu pháp dã.

Pháp vô xứ sở. Nhược trước xứ sở, thị tắc trước xứ, phi cầu pháp dã.

Pháp danh vô tướng. Nhược tùy tướng thức, thị tắc cầu tướng, phi cầu pháp dã.

Pháp bất khả trụ. Nhược trụ ư pháp, thị tắc trụ pháp, phi cầu pháp dã.

Pháp bất khả kiến văn giác tri. Nhược hành kiến văn giác tri, thị tắc kiến văn giác tri, phi cầu pháp dã.

Pháp danh vô vi. Nhược hành hữu vi, thị cầu hữu vi, phi cầu pháp dã.

Thị cố Xá-lỵ-phất! Nhược cầu pháp giả, ư nhất thiết pháp, ưng vô sở cầu.

Thuyết thị ngữ thời, ngũ bá thiên tử, ư chư pháp trung đắc pháp nhãn tịnh.

Nhĩ thời, Trưởng giả Duy-ma-cật vấn Văn-thù-sư-lợi: Nhân giả du ư vô lượng thiên vạn ức a-tăng-kỳ quốc. Hà đẳng Phật độ hữu hảo thượng diệu công đức thành tựu sư tử chi tòa?

Văn-thù-sư-lợi ngôn: Cư sĩ, Đông phương độ tam thập lục Hằng hà sa quốc, hữu thế giới danh Tu-di Tướng. Kỳ Phật hiệu Tu-di Đăng Vương kim hiện tại. Bỉ Phật thân trường bát vạn tứ thiên do-tuần. Kỳ Sư tử tòa cao bát vạn tứ thiên do-tuần, nghiêm sức đệ nhất.

Ư thị, Trưởng giả Duy-ma-cật hiện thần thông lực. Tức thời, bỉ Phật khiển tam vạn nhị thiên sư tử chi tòa, cao quảng nghiêm tịnh, lai nhập Duy-ma-cật thất. Chư Bồ Tát, đại đệ tử, Thích, Phạm, Tứ thiên vương đẳng, tích sở vị kiến. Kỳ thất quảng bác, tất giai bao dung tam vạn nhị thiên sư tử tòa, vô sở phường ngại. Ư Tỳ-da-ly thành cập Diêm-phù-đề, Tứ thiên hạ, diệc bất bách trách, tất kiến như cố.

Nhĩ thời, Duy-ma-cật ngứ Văn-thù-sư-lợi: Tựu sư tử tòa, dữ chư Bồ Tát thượng nhân câu tọa. Đương tự lập thân như bỉ tòa tượng. Kỳ đắc thần thông Bồ Tát tức tự biến hình vi tứ vạn nhị thiên do-tuần, tọa Sư tử tòa. Chư tân phát ý Bồ Tát cập đại đệ tử giai bất năng thăng.

Nhĩ thời, Duy-ma-cật ngứ Xá-lỵ-phất: Tựu Sư tử tòa.

Xá-lỵ-phất ngôn: Cư sĩ, thử tòa cao quảng, ngô bất năng thăng.

Duy-ma-cật ngôn: Duy, Xá-lỵ-phất! Vị Tu-di Đăng Vương Như Lai tác lễ, nãi khả đắc tọa.

Ư thị, tân phát ý Bồ Tát cập đại đệ tử tức vị Tu-di Đăng Vương Như Lai tác lễ, tiện đắc tọa sư tử tòa.

Xá-lỵ-phất ngôn: Cư sĩ, vị tằng hữu dã! Như thị tiểu thất nãi dung thọ thử cao quảng chi tòa! Ư Tỳ-da-ly thành, vô sở phường ngại. Hựu ư Diêm-phù-đề tụ lạc thành ấp, cập Tứ thiên hạ chư thiên, long vương, quỷ thần cung điện, diệc bất bách trách.

Duy-ma-cật ngôn: Duy, Xá-lỵ-phất! Chư Phật, Bồ Tát hữu giải thoát, danh Bất khả tư nghị. Nhược Bồ Tát trụ thị giải thoát giả, dĩ Tu-di chi cao quảng nạp giới tử trung, vô sở tăng giảm. Tu-di sơn vương bổn tướng như cố. Nhi Tứ thiên vương, Đao-lỵ chư thiên bất giác bất tri kỷ chi sở nhập. Duy ứng độ giả nãi kiến Tu-di nhập giới tử trung. Thị danh Bất khả tư nghị giải thoát pháp môn.

Hựu dĩ tứ đại hải thủy nhập nhất mao khổng, bất nhiễu ngư, biết, nguyên, đà thủy tánh chi thuộc. Nhi bỉ đại hải bổn tánh như cố. Chư long, quỷ, thần, a-tu-la đẳng bất giác bất tri kỷ chi sở nhập. Ư thử chúng sinh, diệc vô sở nhiễu.

Hựu, Xá-lỵ-phất! Trụ Bất khả tư nghị giải thoát Bồ Tát, đoạn thủ tam thiên đại thiên thế giới như đào gia luân, trước hữu chưởng trung, trịch quá Hằng sa thế giới chi ngoại. Kỳ trung chúng sinh bất giác bất tri kỷ chi sở vãng. Hựu phục hoàn trí bổn xứ, đô bất sử nhân hữu vãng lai tưởng. Nhi thử thế giới bổn tướng như cố.

Hựu, Xá-lỵ-phất! Hoặc hữu chúng sinh nhạo cửu trụ thế nhi khả độ giả, Bồ Tát tức diễn thất nhật dĩ vi nhất kiếp, linh bỉ chúng sinh vị chi nhất kiếp. Hoặc hữu chúng sinh bất nhạo cửu trụ nhi khả độ giả, Bồ Tát tức xúc nhất kiếp dĩ vi thất nhật, linh bỉ chúng sinh vị chi thất nhật.

Hựu, Xá-lỵ-phất! Trụ Bất khả tư nghị giải thoát Bồ Tát, dĩ nhất thiết Phật độ nghiêm sức chi sự, tập tại nhất quốc, thị ư chúng sinh. Hựu, Bồ Tátnhất thiết Phật độ chúng sinh, trí chi hữu chưởng, phi đáo Thập phương, biến thị nhất thiết, nhi bất động bổn xứ.

Hựu, Xá-lỵ-phất! Thập phương chúng sinh cúng dường chư Phật chi cụ, Bồ Tát ư nhất mao khổng, giai linh đắc kiến. Hựu, thập phương quốc độ sở hữu nhật nguyệt tinh tú, ư nhất mao khổng, phổ sử kiến chi.

Hựu, Xá-lỵ-phất! Thập phương thế giới sở hữu chư phong, Bồ Tát tất năng hấp trước khẩu trung, nhi thân vô tổn. Ngoại chư thọ mộc diệc bất tồi chiết.

Hựu, thập phương thế giới kiếp tận thiêu thời, dĩ nhất thiết hỏa nạp ư phúc trung, hỏa sự như cố, nhi bất vi hại. Hựu, ư hạ phương, quá Hằng hà sa đẳng chư Phật thế giới, thủ nhất Phật độ, cử trước thượng phương, quá Hằng hà vô số thế giới, như trì châm phong cử nhất táo diệp, nhi vô sở nhiễu.

Hựu, Xá-lỵ-phất! Trụ Bất khả tư nghị giải thoát Bồ Tát, năng dĩ thần thông hiện tác Phật thân, hoặc hiện Bích chi Phật thân, hoặc hiện Thanh văn thân, hoặc hiện Đế-thích thân, hoặc hiện Phạm vương thân, hoặc hiện Thế chủ thân, hoặc hiện Chuyển luân Thánh vương thân. Hựu, thập phương thế giới sở hữu chúng thanh, thượng, trung, hạ âm, giai năng biến chi, linh tác Phật thanh, diễn xuất vô thường, khổ, không, vô ngã chi âm. Cập thập phương chư Phật sở thuyết chủng chủng chi pháp, giai ư kỳ trung, phổ linh đắc văn.

Xá-lỵ-phất! Ngã kim lược thuyết Bồ Tát Bất khả tư nghị giải thoát chi lực. Nhược quảng thuyết giả, cùng kiếp bất tận.

Thị thời, Đại Ca-diếp, văn thuyết Bồ Tát Bất khả tư nghị giải thoát pháp môn, thán vị tằng hữu, vị Xá-lỵ-phất: Thí như hữu nhân, ư manh giả tiền, hiện chúng sắc tượng, phi bỉ sở kiến. Nhất thiết Thanh văn, văn thị Bất khả tư nghị giải thoát pháp môn, bất năng giải liễu, vi nhược thử dã. Trí giả văn thị, kỳ thùy bất phát A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề tâm? Ngã đẳng hà vi vĩnh tuyệt kỳ căn, ư thử Đại thừa, kỷ như bại chủng? Nhất thiết Thanh văn, văn thị Bất khả tư nghị giải thoát pháp môn, giai ưng hào khấp, thanh chấn tam thiên đại thiên thế giới! Nhất thiết Bồ Tát ưng đại hân khánh, đảnh thọ thử pháp! Nhược hữu Bồ Tát tín giải Bất khả tư nghị giải thoát pháp môn giả, nhất thiết ma chúng vô như chi hà!

Đại Ca-diếp thuyết thử ngữ thời, tam vạn nhị thiên thiên tử giai phát A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề tâm.

Nhĩ thời, Duy-ma-cật ngứ Đại Ca-diếp: Nhân giả! Thập phương vô lượng a-tăng-kỳ thế giới trung, tác ma vương giả, đa thị trụ Bất khả tư nghị giải thoát Bồ Tát. Dĩ phương tiện lực cố giáo hóa chúng sinh, hiện tác ma vương.

Hựu, Ca-diếp, thập phương vô lượng Bồ Tát, hoặc hữu nhân tùng khất: thủ túc nhĩ tỷ, đầu mục tủy não, huyết nhục bì cốt, tụ lạc thành ấp, thê tử nô tỳ, tượng mã xa thặng, kim ngân lưu ly, xa cừ mã não, san hô hổ phách, chân châu khoa bối, y phục ẩm thực. Như thử khất giả, đa thị trụ Bất khả tư nghị giải thoát Bồ Tát. Dĩ phương tiện lực nhi vãng thí chi, linh kỳ kiên cố. Sở dĩ giả hà? Trụ Bất khả tư nghị giải thoát Bồ Tát, hữu oai đức lực, cố hành bức bách, thị chư chúng sinh như thị nan sự. Phàm phu hạ liệt, vô hữu lực thế, bất năng như thị bức bách Bồ Tát. Thí như long tượng xúc đạp, phi lư sở kham. Thị danh trụ Bất khả tư nghị giải thoát Bồ Tát trí huệ phương tiện chi môn.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19688)
Hạnh phúc hay khổ đau trong kiếp sống hiện tại và tương lai đều là kết cục của những ý nghĩ và hành động trong kiếp sống quá khứ hay bây giờ của chúng ta...
(Xem: 23951)
Tôi nghe như vầy, một thuở nọ đức Phậttịnh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá, xứ Ma Kiệt Ðà, cùng với năm trăm vị đại tỳ kheo, đều là các bậc A La Hán...
(Xem: 41210)
Khi ấy đức Thế tôn vì các Tỳ-khưu mà nói Pháp Tứ Đế, thời các Tỳ-khưu đầy đủ Tam minhLục thần thông. Bấy giờ các Tỳ-khưu khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân.
(Xem: 19686)
Một khi chúng ta chấp nhận một truyền thống tôn giáo, thì điều ấy phải trở thành một bộ phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
(Xem: 23973)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21741)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23291)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27497)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26551)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29307)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 33176)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 20179)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 25760)
Cái nhân bồ tát hạnh của Phật làm cho sự sống lâu của Phật đã không bao giờ hết. Phật ở bên ta... HT Thích Trí Quang dịch
(Xem: 20902)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 31301)
Kinh Tăng Chi Bộ là một bộ kinh được sắp theo pháp số, từ một pháp đến mười một pháp, phân thành 11 chương (nipàtas). Mỗi chương lại chia thành nhiều phẩm (vaggas).
(Xem: 38552)
Hai mươi tám phẩm kinh Pháp-Hoa chan chứa tâm hạnh của Phật và đại Bồ-Tát, trải dài những con đường phương tiện giáo hóa thênh thang ngõ hầu mang chúng sanh từ phàm đến thánh...
(Xem: 21424)
Những ai hữu duyên đọc được kinh này, sẽ có chính kiến thấy được cuộc sống hiện tại là tấm gương phản chiếu quá khứ vị lai. Đúng như lời Phật dạy, mình không cần phải nhờ thầy xem bói mà chính mình là vị thầy bái cho mình hơn ai hết.
(Xem: 44240)
Lễ quy y theo Phật giáo là một buổi lễ tổ chức đơn giản cho cá nhân hay tập thể, xin gia nhập vào hàng ngũ Phật tử. Lễ này có thể tổ chức tại gia, chùa chiền...
(Xem: 29812)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 42187)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 22130)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 45735)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32103)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 23947)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo, vì danh từ và nghĩa lý của ngoại đạo cũng tựa như lời Phật, xem thì ngoại đạo với Phật hai ý khác hẳn...
(Xem: 24377)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29244)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 33908)
Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá một pháp. Các ngươi sẽ thành tựu thần thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn... TT Thích Đức Thắng dịch
(Xem: 27676)
Tăng Nhất A-hàm là so sánh sự mạch lạc của pháp rồi dùng số mà xếp thứ tự. Số tận cùng là mười, thêm vào một, nên gọi là Tăng Nhất... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 32118)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21058)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 28840)
Thanh Quy cũng như luật ngoài đời, do Tổ thuật mà giữ gìn đúng nghi cách. Nhưng Thanh Quy khởi đầu từ ngài Pháp Vân đời Lương (thế kỷ 5) ở chùa Quang Trạch.
(Xem: 21562)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 28055)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 22058)
Thiện nam tử, nếu có ngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì không phải Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu khôngngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì gọi là Phật ngữ.
(Xem: 21421)
Sa môn hỏi Phật, lành là gì? lớn nhất là gì? Phật nói, đi theo đường đạo, giữ đúng lẽ chân, là lành. Chí nguyện phù hợp với đạo là lớn nhất.
(Xem: 19489)
Phật dạy: Người có nhiều tội lỗi, không biết tự ăn năn sửa đổi, tội ấy chồng chất vào mình, chẳng khác gì nước dồn về biển, càng ngày càng nhiều... HT Thích Thanh Cát
(Xem: 19457)
Đức Phật dạy: "Những người xuất gia làm Sa-môn đoạn dục, khứ ái, nhận biết nguồn tâm của mình, thông đạt đạo lý thâm sâu của Phật và tỏ ngộ pháp Vô-vi.
(Xem: 19827)
Sau khi thành đạo, đức Thế-Tôn suy nghĩ rằng: “Lìa bỏ sự ham muốn, an- trụ trong vẳng-lặng, là điều cao hơn cả!”. Ngài an-trụ trong đại-định và hàng-phục các ma-đạo.
(Xem: 19233)
Đức Thế-Tôn nói qua về hành-tướng của nhân-duyên rằng: Do duyên kia sinh ra quả, nên dù Như-Lai xuất-hiện ra đời hay không xuất-hiện ra đời đi nữa, tính của mọi pháp (sự-vật) vẫn thường-trụ.
(Xem: 29169)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20607)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28273)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23646)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33163)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31831)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 21363)
Giới luậtuy nghi không phải là những yếu tố hạn chếbó buộc, trái lại đó là những phương tiện bảo vệ tự do cá nhân và tạo nên sự hòa hợpan lạc cho đoàn thể tu học mình.
(Xem: 39610)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 21542)
Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ.
(Xem: 19365)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26369)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24810)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21749)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 22371)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Giới là gốc của Vô thượng Bồ đề”. Do đó, tinh thần căn bản của Phật giáo là ở sự tôn nghiêm của giới luật, tức là đệ tử của Phật phải tôn trọng và tuân giữ giới luật.
(Xem: 29125)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22550)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20465)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23508)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21229)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35306)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24539)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant