Trần Trọng Kim
CÁC TÔNG PHÁI TRONG ĐẠI THỪA VÀ TIỂU THỪA
CÁC TÔNG ĐẠI THỪA
1. Pháp tướng tông
Tông
này phát khởi từ ba vị Vô Trước, Thế Thân và Hộ Pháp, lấy Thành duy thức luận
làm gốc, cho rằng vạn pháp đều do thức biến ra.
Thức có tám loại là: nhãn thức, nhĩ thức, vị thức (hay tỉ thức), thiệt thức,
thân thức, ý thức, mạt-na thức và a-lại-da thức. Trong tám thức ấy, a-lại-da
thức là căn bản.
A-lại-da thức còn gọi là Tạng thức, bao tàng hết các chủng tử, rồi do những
chủng tử ấy mà phát sinh ra vạn tượng. Vạn tượng tan thì các chủng tử lại mang nghiệp
trở về a-lại-da thức. Chủng tử lại vì nhân duyên mà sinh hóa mãi. Vậy nhân
duyên là nhân duyên của các chủng tử. A-lại-da thức thì chứa hết thảy các chủng
tử để sinh khởi nhất thiết chư pháp.
Như thế là vạn pháp do thức mà biến hiện ra, cho nên nói rằng: “Tam giới duy
tâm, vạn pháp duy thức.”
Ngài Huyền Trang đời Đường sang Ấn Độ theo học với ngài Giới Hiền, rồi đem Pháp
tướng tông về truyền ở Trung Hoa.
2. Tam luận tông
Tông này lấy Trung luận và Thập nhị môn luận của Bồ-tát Long Thụ và bộ Bách luận
của Đề-bà làm căn bản, nên mới gọi là Tam luận.
Tam luận tông cho rằng hết thảy vạn hữu trong hiện tượng giới đều sanh diệt vô
thường. Đã sanh diệt vô thường là không có tự tính, chỉ bởi nhân duyên làm mê
hoặc mà biến hóa ra vạn hữu.
Kẻ phàm tục vì vọng kiến cho nên mới chấp lấy cái có tạm bợ ấy. Bậc chân trí
thì không nhận cái tạm có mà thấy rằng hết thảy đều là không.
Các pháp tuy là hiện hữu nhưng không phải là thường có. Có mà không phải là
thường có tức là chỉ tạm có. Tạm có nên tuy là có mà không phải là có. Có mà
không phải là thật có thì cũng chẳng khác gì không. Vậy nên các pháp tuy là đều
có, nhưng thật tướng là không.
Lý thể của chân như tuy là không tịch, bất sanh bất diệt, nhưng bởi nó sanh ra
các pháp, cho nên nó là nguồn gốc của cái tạm có. Đã là nguồn gốc, thì lý thể
của chân như là không. Như thế, chân như là không mà không phải thật là không,
cho nên đối với có không khác gì. Vì thế chân như tuy là không tịch mà rõ ràng
là có.
Có và không, không và có, thật chẳng khác nhau. Có là có do nơi không; không là
không do nơi có. Có và không hai bên toàn nhiên hòa hợp với nhau. Thấy rõ chỗ
ấy là Trung đạo, là không vướng mắc vào cả có lẫn không.
Vì sự nhận thức của ta sai lầm, mà thành ra có không và có. Vượt lên trên sự
nhận thức thì mới đạt được cái thực tại bất khả tư nghị. Sự nhận thức của ta
chỉ nhận thức được trong phạm vi hiện tượng mà thôi, không thể nhận thức được
thực tại. Muốn đạt tới thực tại thì phải nhờ đến trực giác mới được.
Tam luận tông lấy kinh Bát-nhã làm gốc, cho nên còn gọi là Bát-nhã tông, khi
đối với Pháp tướng tông thì gọi là Tánh tông hay là Không tông.
3. Thiên thai tông
Tông này khởi phát ở Trung Hoa, do thiền sư Tuệ Văn đời Tần, Tùy lập ra, dựa
theo ý nghĩa sách Trí Độ luận và kinh Pháp Hoa làm gốc. Cho nên còn gọi là Pháp
Hoa tông.
Thiên thai tông chủ trương thuyết “chư pháp duy nhất tâm”. Tâm ấy tức là chúng
sanh, tâm ấy tức là Bồ-tát và Phật. Sanh tử cũng ở nơi tâm ấy, Niết-bàn cũng ở
nơi tâm ấy.
Thiền sư Tuệ Văn chủ lấy Trung đạo mà luận cái tâm và lập ra thuyết “nhất tâm
tam quán”. Tam quán là Không quán, Giả quán và Trung quán.
Trong Không quán có Giả quán và Trung quán, không phải tuyệt nhiên là không.
Trong Giả quán có Không quán và Trung quán, không phải tuyệt nhiên là giả.
Trung quán là dung nạp cả không và giả.
Chân như với tâm và vật quan hệ với nhau như nước với sóng. Ngoài nước không có
sóng, ngoài chân như không có tâm, ngoài tâm không có vật.
Thiên thai tông lấy hiện tại mà tìm chỗ lý tưởng. Thiện ác chân vọng đối với
tông này chỉ là một sự hoạt động của thực tại. Vì thế cho nên không cưỡng cầu
giải thoát ra ngoài hiện tại giới sanh diệt vô thường. Trong hiện tượng giới
gồm cả hai tính thiện và ác. Thiện hay ác cũng chỉ do một tâm tác dụng mà thôi.
Hai cái, không có cái nào độc tồn. Cho nên Phật không làm lành mà cũng không
làm dữ.
Sự giải thoát phải tìm ở nơi thấu suốt chân lý, thoát ly chấp trước. Chỗ cuối
cùng đạt đến là phải triệt ngộ thực tướng của các pháp.
4. Hoa nghiêm tông
Tông này cũng như Thiên thai tông, phát khởi ở Trung Hoa, căn cứ ở kinh Hoa
Nghiêm, do hòa thượng Đỗ Thuận và Trí Nghiễm đời Tùy Đường lập ra.
Tông này cho rằng các pháp có sáu tướng: tổng, biệt, đồng, dị, thành, hoại. Gọi
chung là “tam đối lục tướng”. Vạn vật đều có sáu tướng ấy.
Khi sáu tướng ấy phát ra thì phân làm Hiện tượng giới và Thực tại giới, và khi
sáu tướng ấy tương hợp nhau thì hiện tượng tức là thực tại, thực tại tức là
hiện tượng.
Vạn hữu có “tam đối lục tướng” là do Thập huyền diệu lý duyên khởi. Thập huyền
diệu lý và Lục tướng viên dung sinh ra cái lý “sự sự vô ngại”.
Sự sự vô ngại luận là chỗ đặc sắc nhất trong giáo lý của Hoa nghiêm tông.
Theo tông ấy thì phân biệt chân vọng, trừ khử điên đảo khiến cho tâm thanh
tịnh, để cùng thực tại hợp nhất, thế là giải thoát.
5. Chân ngôn tông
Tông này căn cứ ở kinh Đại Nhật, lấy bí mật chân ngôn làm tông chỉ, cho nên gọi
là Chân ngôn tông, hay là Mật tông.
Đại Nhật Như Lai truyền cho Kim-cang-tát-đỏa. Kim-cương-tát-đỏa truyền cho Long
Thọ, Long Thọ truyền cho Long Trí, Long Trí truyền cho Kim Cương Trí, Kim Cương
Trí cùng với Bất Không vào khoảng đời Đường đem tông này truyền sang Trung Hoa.
Chân ngôn tông chủ trương các thuyết Lục đại là địa, thủy, hỏa, phong, không,
thức, cho sáu đại này là thực thể của vũ trụ.
Lục đại xét về phương diện vũ trụ thì gọi là thể đại, hiện ra hình hài gọi là
tướng đại, hiện ra ngôn ngữ, động tác gọi là dụng đại. Vạn hữu trong vũ trụ
không có gì ra ngoài thể đại, tướng đại, dụng đại.
Gọi là chân như là lấy lý tính do sáu đại mà trừu tượng ra. Ngoài sáu đại ra,
không thấy đâu là chân như.
Sự giải thoát của Chân ngôn tông là ở nơi “tự thân thành Phật”, cho nên bỏ hết
chấp trược, theo cái hoạt động của Đại ngã. Phương thức giải thoát của tông này
là ba mật, tức là thân, miệng và ý.
6. Thiền tông
Thiền tông không bàn luận về vũ trụ, chỉ chủ ở sự cầu được giải thoát mà thôi.
Cứu cánh của Thiền tông không trói buộc nơi văn tự, nên chỉ lấy tâm truyền tâm
mà thôi. Thực tướng của vũ trụ thuộc về phạm vi trực giác. Nếu lấy văn tự mà
giải thích thì tất là sa vào hiện tượng giới, không thể đạt tới thật tướng
được. Nếu không tọa thiền dùng trực giác thì không thể biết được thật tướng.
7. Tịnh độ tông
Tịnh độ tông lấy sự quy y Tịnh độ làm mục đích, và tụng những kinh Vô Lượng
Thọ, Quán Vô Lượng Thọ và A-di-đà.
Tịnh độ tông khởi phát từ đời nào không rõ, chỉ thấy trong các kinh điển nói
các vị Bồ-tát Mã Minh, Long Thụ và Thế Thân đều khuyên người ta nên tu Tịnh độ.
Tịnh độ tông cho rằng mỗi người ai cũng có Phật tánh, đều có thể thành Phật
được. Vì ở thế gian là dơ bẩn, cho nên cầu đến cõi trong sạch là cõi Tây phương
Cực lạc.