Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

1. Tâm kinh tụng

05 Tháng Ba 201100:00(Xem: 14564)
1. Tâm kinh tụng

THIẾU THẤT LỤC MÔN
Nguyễn Minh Tiến dịch và chú giải, Nguyễn Minh Hiến hiệu đính Hán văn

TÂM KINH TỤNG

Ma ha bát nhã ba la mật đa tâm kinh

Biển trí huệ thanh tịnh,
Nghĩa sâu, lý khó lường.
Ba-la, sang bờ giác,
Chỉ do tâm đưa đường.

Nghe biết ngàn muôn ý,
Buộc vào như chỉ, kim.
Chúng hiền xưa khâm ngưỡng,
Đạo lớn một kinh này.

Quán tự tại bồ tát

Bồ Tát siêu trí thánh,
Sáu xứ ắt ngang đồng.
Tâm không, rộng thấy biết,
Thần thông không ngăn ngại,

Vào thiền vâng chánh pháp,
Thần biến tùy đông, tây.
Dạo chơi khắp mười phương,
Chẳng thấy hành tung Phật.

Hành thâm bát nhã ba la mật đa thời

Sáu năm cầu đại đạo,
Công phu chẳng lìa thân.
Tâm trí huệ, giải thoát,
Bến giác một đường lên.

Đạo vắng lặng trống không,
Y lời Đạo sư thuyết.
Phật nêu ý bình đẳng,
Tự vượt trên muôn người.

Chiếu kiến ngũ uẩn giai không

Năm uẩn do tham ái,
Giả hợp tạo thành thân.
Máu thịt cùng gân xương,
Da bọc đống bụi trần.

Người mê ưa đắm chấp,
Bậc trí dứt tình thân.
Bốn tướng cùng dứt sạch,
Mới gọi ấy là chân.

Độ nhất thiết khổ ách

Thân khổ do vọng buộc,
Ta, người tự mê tâm.
Niết-bàn đạo thanh tịnh,
Ai theo đắm chấp tâm?

Ấm, giới, sáu trần sanh,
Nạn khổ, nghiệp theo liền.
Nếu biết tâm không khổ,
Nghe sớm ngộ Bồ-đề.

Xá lợi tử

Do gốc tâm đạt đạo,
Tâm tịnh lợi thêm nhiều.
Như sen ra khỏi nước,
Hiểu ngay đạo vốn hòa.

Thường nơi tướng tịch diệt,
Trí huệ khó ai hơn.
Vượt thoát ngoài ba cõi,
Buông bỏ cảnh Ta-bà.

Sắc bất dị không không bất dị sắc

Sắc cùng không một mối,
Chưa đạt thấy là hai.
Nhị thừa sanh phân biệt,
Chấp tướng tâm dối gian.

Ngoài không, đâu sắc khác?
Không sắc, nghĩa mênh mang.
Tánh thanh tịnh không sinh,
Đạt ngộ ấy Niết-bàn.

Sắc tức thị không không tức thị sắc

Lìa không, không nào có?
Lìa sắc, sắc vô hình!
Sắc không đồng một mối,
Cõi tịnh được yên bình.

Lìa không, không mầu nhiệm.
Lìa sắc, sắc rõ phân.
Sắc không chẳng phải tướng,
Hình thể lập từ đâu?

Thọ tưởng hành thức diệc phục như thị

Thọ, tưởng nhận các duyên,
Hành, thức chứa rộng tràn.
Tâm biến kế dứt được,
Bệnh chẳng còn liên quan.

Tâm giải thoát không ngại,
Trừ chấp, rõ nguồn tâm.
Nói rằng: cũng như vậy.
Tánh tướng đều như nhau.

Xá lợi tử

Xá: luận về thân tướng,
Lợi: ấy chỉ một tâm.
Bồ Tát sức kiên cố,
Bốn tướng chẳng động lay.

Đạo thành không nhân chấp,
Thấy tánh pháp không lời.
Bao lậu hoặc dứt sạch,
Khắp thể thật vàng ròng.

Thị chư pháp không tướng

Chư Phật dạy pháp không,
Thanh văn cầu nơi tướng.
Trong kinh tìm lý đạo,
Việc học bao giờ thôi?

Tướng chân thật trọn thành,
Bừng sáng tâm không tu.
Vượt hẳn ngoài pháp giới,
Tự tại còn chi lo?

Bất sanh bất diệt

Pháp thân thể thanh tịnh,
Không tướng vốn là chân.
Như cõi không hiện khắp,
Thể muôn kiếp thường còn.

Không chung cùng, đắm chấp,
Mới, cũ cũng đều không.
Sáng hòa, tối không nhiễm,
Ba cõi đồng tôn xưng.

Bất cấu bất tịnh

Chân như ngoài ba cõi,
Dơ, sạch xưa nay không.
Thích-ca bày phương tiện,
Dạy muôn pháp chẳng đồng.

Trong không nào có pháp,
Chỉ thị hiện huyền cơ.
Xưa nay không một vật,
Đâu hợp thành sạch dơ?

Bất tăng bất giảm

Thể Như Lai không tướng,
Tràn đầy khắp hư không.
Trên không, sao thành có?
Trong có, nào thấy không?

Hình sắc, trăng dưới nước.
Âm thanh, gió thoảng tai.
Pháp thân đâu tăng giảm?
Ba cõi vẫn không ngoài.

Thị cố không trung

Bồ-đề chẳng ở ngoài,
Nghe tìm khó lắm thay!
Không tướng, chẳng không tướng,
Đo lường mất mối manh.

Thế giới, không thế giới,
Hào quang chiếu khắp trời.
Xưa nay không chướng ngại,
Nơi nào có vật ngăn?

Vô sắc vô thọ tưởng hành thức

Lìa sắc, vốn là không,
Lìa thọ, ý cũng không.
Hành, thức thật không có,
Dứt sạch có, về không.

Giữ có, thật không có,
Nương không, lại mất không.
Sắc không đều lìa hết,
Mới chứng đắc thần thông.

Vô nhãn nhĩ tỉ thiệt thân ý

Sáu căn không riêng tánh,
Chỉ do tướng nên thành.
Sắc chia, tiếng vọng lại,
Ta, người đầu lưỡi chơi.

Mũi vọng chia thơm, thối,
Thân, ý sa dục tình.
Sáu xứ tham ái dứt,
Muôn kiếp thoát luân hồi.

Vô sắc thanh hương vị xúc pháp

Trí sáng không hình, tiếng,
Cũng không mùi, vị, xúc.
Sáu trần do vọng khởi,
Tâm phàm tự hoặc nghi.

Sanh tử dừng sanh tử,
Ngay đó chứng Bồ-đề.
Tánh pháp không, chẳng trụ,
Chỉ e trì trệ mê.

nhãn giới nãi chí vô ý thức giới

Sáu thức theo vọng khởi,
Tánh y tha rõ thông.
Mắt, tai cùng thân, ý.
Ai người tự xét lường?

Lưỡi, mũi theo điên đảo,
Vua tâm phải khuất lùi.
Trong sáu thức chẳng lâu,
Thoắt ngộ đồng Như Lai.

vô minh diệc vô vô minh tận nãi chílão tử diệc vô lão tử tận

Mười hai nhân duyên hiện,
Sanh ra, già nối theo.
Có thân, vô minh có,
Sinh diệt nào khác nhau.

Thân dứt, vô minh dứt,
Thọ báo chẳng đến kỳ.
Biết thân như huyễn hóa,
Mau chóng ngộ vô vi.

khổ tập diệt đạo

Ba cõi, Bốn đế dậy,
Nghĩa đốn giáo rõ phân.
Dứt khổ, trừ nhân khổ,
Đạo thánh tự nhiên thành.

Thanh văn dừng vọng tưởng,
Duyên giác ý bình an.
Muốn rõ thông quả Phật,
Chớ để tâm trệ dừng.

Vô trí diệc vô đắc

Pháp chưa từng có, không,
Trí huệ khó xét lường.
Hoan hỷ: lìa cáu bẩn,
Phát quang: khắp mười phương.

Nan thắng: ngay hiện tiền,
Viễn hành: đạo trường lớn.
Bất động: vượt bờ giác,
Thiện huệ: đấng Pháp vương.

vô sở đắc cố

Thể tịch diệt, ai được?
Chân không, bám nơi đâu?
Xưa nay không tướng mạo,
Tạm bày ba pháp thí.

Bốn trí, dụ giảng pháp,
Sáu độ, cửa ải qua.
Mười địa, pháp ba thừa,
Các thánh khôn lường xiết.

Bồ đề tát đỏa

Phật đạo đâu dễ biết,
Tát-đỏa, ấy kẻ phàm.
Chúng sanh nên thấy tánh,
Kính Phật chớ lìa tâm.

Hàng trí giả thế gian,
Luận bàn pháp tế, thô.
Thoắt ngộ tâm bình đẳng,
Các tướng đều dứt trừ.

Y bát nhã ba la mật đa cố

Bát-nhã là trí huệ,
Ba-la, không chỗ nương.
Tâm không, tánh rộng khắp,
Trong ngoài đều vô vi.

Tánh không, thông biện luận,
Ba cõi mấy ai thành?
Trí lớn rõ pháp sâu,
Đều khen: Chẳng nghĩ bàn!

Tâm vô quái ngại

Tâm giải thoát không ngại,
Ý trùm khắp hư không.
Bốn phương không một vật,
Trên dưới cùng rỗng không.

Đến đi tâm tự tại,
Người, pháp chẳng ngại ngăn.
Tìm đạo, không thấy vật,
Tùy duyên thoát khổ phiền.

quái ngại cố vô hữu khủng bố

Sống chết, tâm khiếp sợ,
Vô vi, tánh an bình.
Quên cảnh, tâm liền diệt,
Biển tánh lặng mênh mông.

Ba thân về cõi tịnh,
Tám thức dứt nhân duyên.
Sáu thông tùy tướng thật,
Quay về tức nguồn xưa.

Viễn li điên đảo mộng tưởng

Chớ dựng pháp có, không,
Cũng đừng tu pháp giữa.
Thấy tánh, sanh tử dứt,
Bồ-đề không chỗ cầu.

Lìa thân đi tìm Phật,
Điên đảo trọn một đời.
Ngồi tịnh thân an vui,
Quả vô vi tự thành.

Cứu cánh Niết bàn

Tánh không sanh, cứu cánh.
Thanh tịnh là Niết-bàn.
Kẻ phàm đừng xét thánh,
Chưa rõ, khó muôn vàn.

Có học thành không học,
Trí Phật sâu nhiệm mầu.
Nhận rõ lẽ không tâm,
Không chấp, tâm lặng dừng.

Tam thế chư Phật

Nói quá khứ, không thật,
Tương lai, chẳng phải chân.
Hiện tại, nhân giác ngộ,
Không pháp, pháp nhiệm mầu.

Ba thân về nơi một,
Một tánh trọn bao dung.
Quá, hiện, vị lai không,
Một pháp tự nhiên thành.

Y bát nhã ba la mật đa cố đắc a nậu đa la tam miệu tam bồ đề

Trí Phật sâu khó lường,
Huệ giải rộng vô biên.
Thần biến, tâm vô thượng,
Từ bi chiếu mười phương.

Tâm tịch diệt khéo thay,
Tạo thành hơn muôn pháp.
Bồ Tát nhiều phương tiện,
Cứu độ khắp sinh linh.

Cố tri bát nhã ba la mật đa thị đại thần chú thị đại minh chú

Bát-nhã: chú linh diệu,
Dứt mối nghi năm uẩn.
Phiền não đều trừ hết,
Thanh tịnh tự dứt lìa.

Bốn trí sóng không cùng,
Tám thức đầy thần uy.
Đèn tâm sáng cõi pháp,
Ngay đó tức Bồ-đề.

Thị vô thượng chú

Cao tột chẳng ai bằng,
Cứu độ kẻ lầm mê.
Đứng đầu trong ba cõi,
Nguyện lớn khởi từ bi.

Nương theo ý chúng sanh,
Phương tiện dắt dẫn về.
Người người sang bến giác,
Đều do chính sức mình.

Thị vô đẳng đẳng chú

Ngàn thánh xưa thành Phật,
Pháp lực không gì hơn.
Chân không, diệt các tướng,
Thị hiện khắp Ta-bà.

Chúng sanh khổ: hiện đến.
Thế gian ma: lìa đi.
Kiếp thạch thảy đều dứt,
Tánh thật vẫn thường còn.

Năng trừ nhất thiết khổ chân thật bất hư

Nguyện lớn, từ tâm lớn,
Phật đời đời độ sanh,
Truyền pháp, dạy lẽ thật,
Khuyên muôn người gấp tu.

Hồi tâm thấy tướng thật,
Dứt khổ đạt vô sinh.
Mãi mãi lìa nẻo dữ,
Thanh thản lòng an vui.

Cố thuyết bát nhã ba la mật đa chú

Nay giảng lẽ chân như,
Chưa rõ mau hồi tâm.
Sáu giặc, mười ác sạch,
Nghiệp ma dứt hết liền.

Thần chú trừ ba độc,
Hoa tâm năm cánh xòe.
Quả chín thành đạo nghiệp,
Cất bước thấy Như Lai.

Tức thuyết chú viết: yết đế yết đế ba la yết đế ba la tăng yết đế bồ đề tát bà ha

Yết-đế: giềng mối chính,
Tùy duyên dựng đạo tràng.
Như Lai tôn quý nhất,
Tâm phàm chớ xét lường.

Không giữa, không hai bên,
Không ngắn cũng không dài.
Bát-nhã ba-la-mật,
Muôn kiếp mãi thường còn.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 49768)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 34645)
Nếu kẻ nam tử người nữ nhơn thân có tai ách, trong nhà nên an trí tháp xá-lợi và hình tượng Phật, họa vẽ tượng đức Văn-thù-sư-lợi Đồng tử, thiêu các thứ hương...
(Xem: 33463)
Phật dạy A-nan: “Đời quá khứ, cõi Diêm-phù-đề này có một vị Tỳ-khưu tên là Truyền Giáo. Ngày 15 tháng chín đi du hành về phương Bắc, cách nước Chi Na không xa...
(Xem: 43944)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 57097)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 47582)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 39428)
Bát Thức Quy Củ Tụng - Những bài tụng khuôn mẫu giảng về tám thức tâm vương; tác giả: Huyền Trang; người toát yếu: Khuy Cơ, người dịch giảng: HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 38489)
Quyển "Vi Diệu Pháp Nhập Môn" ngoài tác dụng của bộ sách giáo Khoa Phật Học; còn là cuốn sách đầu giường của học giả nghiên cứu về Triết lý Ấn độ, cũng như Văn Học A Tỳ Ðàm...
(Xem: 52962)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh...Nguyễn Minh Tiến; Đoàn Trung Còn
(Xem: 36614)
Như Lai là bậc A-la-hán, chánh đẳng chánh giác, dùng pháp thắng tri (tuệ tri: biết sát na hiện tiền) hay pháp chánh tri kiến để liễu tri sự vật, không dục hỷ...
(Xem: 32252)
Nếu có ai hỏi ngài Duy Ma Cật: “Bản thể của thế giới này là gì?” thì trước sự im lặng của ngài Duy Ma Cật mà lại được Văn Thù Sư Lợi hết sức tán thưởng là có ý nghĩa sâu xa của nó.
(Xem: 40499)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43505)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 31476)
Nakulapita là một người chủ gia đình sinh sống trong vùng Bhagga, đã trọng tuổithường hay đau yếu. Ông rất kính mến Đức PhậtĐức Phật cũng xem ông như một người con của mình.
(Xem: 46722)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 36218)
Sự kiện Đức Phật chấp nhận thành lập giáo hội Tỳ kheo ni, nâng vị trí người nữ đến mức quan trọng nhất, là việc làm duy nhất và chưa từng thấy trong lịch sử tôn giáo...
(Xem: 28718)
"Có một lần Đấng Thế Tôn lưu ngụ với những người dân trong vùng Bhagga, gần thị trấn Sumsumaragiri, thuộc khu rừng Lộc Uyển...
(Xem: 29257)
Cách tốt nhất để mang lại sự an ổn cho bản thân là hướng về điều thiện, và quy y Tam bảo là nền tảng đầu tiên cho một cuộc sống hướng thiện.
(Xem: 31904)
Lúc bấy giờ, rừng cây Ta La ở thành Câu Thi Na, rừng ấy biến thành màu trắng giống như con hạc trắng. Ở trong hư không tự nhiên mà có tòa lầu các bảy báu với những hoa văn...
(Xem: 28847)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Các vị Đại Bồ Tát nên hàng phục tâm như thế này: ‘Đối với tất cả các loài chúng sinh, hoặc sinh từ bào thai, hoặc sinh từ trứng, hoặc sinh nơi ẩm thấp, hoặc do biến hóa sinh ra...
(Xem: 33387)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0376, Hán dịch: Đời Đông Tấn, Sa-môn Pháp Hiển, Việt dịch: Thích Nguyên Hùng
(Xem: 29161)
Gương trí vằng vặc của Như Lai cũng như thế, là pháp giới vắng lặng không có gián đoạn không có dao động, vì muốn giúp vô lượng vô số chúng sanh thấy rõ nhiễm-tịnh...
(Xem: 60999)
Kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni - một trong các pháp môn - là trí ấn của tất cả Như Lai, mầu nhiệm rộng sâu, khác chi thuyền bè trong biển ba đào, nhật nguyệt giữa trời u ám.
(Xem: 39789)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 26698)
Phật tử có nghĩa là tự nguyện theo Tam quy (ti-sarana), Ngũ giới (pañca-sila), tức là nương tựa vào Tam bảo (ti-ratana) và giữ gìn năm giới căn bản của đạo Phật.
(Xem: 29691)
Trong Kiến Đàn Giải Uế Nghi của Thủy Lục Chư Khoa có lời tán thán bồ tát Quán Thế Âm rằng: “Nhân tu sáu độ, quả chứng một thừa, thệ nguyện rộng sâu như biển lớn mênh mông không thể đo lường...
(Xem: 37405)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40107)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 26858)
Nếu các chúng sanh ác tâm hướng nhau, hãy xưng danh hiệu Địa Tạng Bồ-tát, nhất tâm quy y, khiến chúng sanh kia nhu hòa nhẫn nhục, hổ thẹn với nhau, từ tâm sám hối...
(Xem: 42690)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 37292)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 28306)
Sự hiện hữa của các pháp trên mặt hiện tượng của tướng đó là một sự hiện hữu giả hợp do duyên và, mặt khác tánh của chúng là Không cũng do duyên mang lại.
(Xem: 28907)
Bàn tay cầm chiếc chìa khóa vô thườngchánh niệm. Dùng hơi thở chánh niệm ta tiếp xúc với mọi sự vật, quán chiếu và thấy được tính vô thường của mọi sự vật.
(Xem: 26410)
Này các thầy! Tánh Không thì rỗng không, không vọng tưởng, không sanh, không diệt, lìa tất cả tri kiến. Vì sao? Vì tánh Không không có nơi chốn, không thuộc sắc tướng...
(Xem: 27177)
Phật dạy: Tự tính của Không là không nằm trên bình diện có không, không nằm trong khuôn khổ các vọng tưởng, không có tướng sinh, không có tướng diệt, và vượt thoát mọi tri kiến.
(Xem: 26202)
Đức Phật thấy rõ bản chất của phiền não tham, sân, si là nguồn gốc khổ đau, Ngài chế ra ba phương thuốc Giới-Định-Tuệ để chữa tâm bệnh tham, sân, si cho chúng sinh...
(Xem: 34693)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 27827)
Tôi nghĩ nhiệm vụ quan trọng nhất của bất cứ một hành giả của một tôn giáo nào là thẩm tra chính họ trong tâm hồn của chính họ và cố gắng để chuyển hóa thân thể, lời nói
(Xem: 30491)
Bụt là bậc có Nhất Thiết Trí, bản chất của Người là đại nhân từ, vì thương xót nhân gian cho nên mới xuất hiện trên cuộc đời này để mở bày đạo nghĩa, giải cứu cho con người.
(Xem: 33304)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 28575)
Khi Phật thành đạo là do đạt được Trí Tuệ hay Giác Trí Tuệ thì các pháp giải thoát được thiết lập thực hành Giác Trí Tuệ trong các thời thiền tập.
(Xem: 30085)
Khi tuệ giác nội quán của chúng ta vào trong bản chất tối hậu của thực tạiTính Không được sâu sắc và nâng cao, chúng ta sẽ phát triển một nhận thức về thực tại...
(Xem: 25495)
Thông thường mà nói Bát Nhã có ba ý nghĩa. Thứ nhất là thực tướng, tướng là tướng trạng, thực tướng chính là hình ảnh chân thực. Nghĩa thứ hai là quán chiếu Bát Nhã, cũng chính là chỗ dụng của thực tướng.
(Xem: 21858)
Trong lời phàm lệ của quyển Tứ phần giới bổn như thích, Luật sư Hoằng Tán (1611-1685) nói: "Tam thế chư Phật câu thuyết Kinh-Luật-Luận tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 51332)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 26741)
Tận cùng tư duy của Đạo Phật quan tâm, định luật căn bản là: chúng ta muốn hạnh phúc. Quyền căn bản của chúng tađạt được hạnh phúc.
(Xem: 28638)
Khi chúng ta nói về từ bi, thật đáng khuyến khích để lưu ý rằng bản chất tự nhiên của con người, tôi tin, là từ bihiền lành.
(Xem: 27724)
Thế Tôn, nếu có người nghe được kinh này mà có lòng tin thanh tịnhđạt được cái thấy chân thật thì nên biết người ấy đã thực hiện được công đức hiếm có vào bậc nhất.
(Xem: 24367)
Tự tánh giả danh hay tùy thuộc cũng nằm trong phạm trù Tánh không. Tự tánh giả danh được thể hiện tướng sanh diệt do tác động thời gian thì có sanh có diệt...
(Xem: 27471)
Tuệ quán là tri nhận một cách sáng suốt, vô thời gian. Vì lẽ chơn thức (tri giác nguyên sơ) là một điểm nhận thức có thật trong động tác nhận thức đầu nguồn của tri giác.
(Xem: 31963)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 30200)
Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có thiện nam, thiện nữ nào muốn vì chúng sinh mà nói kinh Pháp Hoa này thời thiện nam hay thiện nữ ấy phải vào nhà Như Lai... Pháp sư Thích Thiện Trí
(Xem: 27721)
“Dược Sư Lưu Ly Quang” là tên gọi của đức Phật này; “Như Lai” là một trong mười tôn hiệu của mỗi vị Phật; “Bổn Nguyện” là các lời phát nguyện của đức Phật này khi Ngài phát tâm Bồ-đề...
(Xem: 35478)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 27471)
Ngày nay, Kinh Chuyển Pháp Luân thuộc Tương Ưng Sự ThậtTương Ưng Bộ SN 56.11 trong kinh điển Pali được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật.
(Xem: 30027)
Để tìm về tính nguyên thủy ấy, lẽ tự nhiên là ta cần khảo sát cẩn trọng bản kinh được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật. Đó là Kinh Như Lai Thuyết...
(Xem: 31796)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 23039)
Kinh Điềm Lành (Mangala Sutta) -- còn có tên là kinh Phước Đức hay kinh Hạnh Phúc -- là bài kinh số 5 trong Tiểu Tụng (Khuddakapātha), thuộc Tiểu Bộ (Khuddhaka Nikāya).
(Xem: 24194)
Cách mà chúng ta đang sống sẽ là một trong các nhân tố chính yếu có thể mang lại cho chúng ta sự thanh thảnđiềm tĩnh trong giây phút lâm chung.
(Xem: 23042)
Kinh này có tám phương pháp tu hành thành Phật, mà bậc Đại nhân gánh vác sự nghiệp lớn liễu sinh thoát tử, hóa độ chúng sinh cần phải giác ngộ, nên gọi là Kinh Tám Điều Giác Ngộ Của Bậc Đại Nhân.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant