Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

14. Phẩm Tu-Di sơn-đảnh kệ tán

11 Tháng Ba 201100:00(Xem: 13912)
14. Phẩm Tu-Di sơn-đảnh kệ tán

KINH HOA NGHIÊM 
Hán Dịch: Ðại-Sư Thật-Xoa-Nan-Ðà - Việt Dịch: HT Thích Trí Tịnh
Phật Học Viện quốc Tế Xuất Bản PL 2527 - 1983

PHẨM TU DI SƠN ÐẢNH KỆ TÁN
THỨ MƯỜI BỐN

Lúc bấy giờ, do thần-lực của đức Phật, từ ngoài trăm phật-sát vi-trần-số quốc-độ, mười-phương đều có một đại Bồ-Tát, mỗi vị đều cùng một phật-sát vi-trần-số Bồ-Tát đồng vân tập đến. Mười đại Bồ-Tát là : Pháp-Huệ Bồ-Tát, Nhứt-Thiết-Huệ Bồ-Tát, Thắng-Huệ Bồ-Tát, Công-Ðức-Huệ Bồ-Tát, Tinh-Tấn-Huệ Bồ-Tát, Thiện-Huệ Bồ-Tát, Trí-Huệ Bồ-Tát, Chơn-Thiệt-Huệ Bồ-Tát, Vô-Thượng-Huệ Bồ-Tát, Kiên-Cố-Huệ Bồ-Tát. Cõi nước của các ngài theo thứ-tự là : Nhơn-Ðà-La-Hoa thế-giới, Ba-Ðầu-Ma-Hoa thế-giới, Bửu-Hoa thế-giới, Ưu-Bát-La-Hoa thế-giới, Kim-Cang-Hoa thế-giới, Diệu-Hương-Hoa thế-giới, Duyệt-Ý-Hoa thế-giới, A-Lô-Hoa thế-giới, Na-La-Ðà-Hoa thế-giới, Hư-Không-Hoa thế-giới. Chư Phật ngự trị nơi đó theo thứ tự là : Thù-Ðặc-Nguyệt-Phật, Vô-Tận-Nguyệt Phật, Bất-Ðộng-Nguyệt Phật, Phong-Nguyệt Phật, Thủy-Nguyệt Phật, Giải-Thoát-Nguyệt Phật, Vô-Thượng-Nguyệt Phật, Tinh-Tú-Nguyệt Phật, Thanh-Tịnh-Nguyệt Phật, Minh-Liễu-Nguyệt Phật.

Chư Bồ-Tát này đến đảnh-lễ chơn Phật, rồi tùy phương đến, đều riêng hóa hiện tòa sư-tử Tỳ-lô-giá-na-tạng mà ngồi kiết-già trên đó.

Như chư Bồ-Tát vân tập đến đảnh núi Tu-Di nơi thế-giới này, thập-phương thế-giới cũng đều như thế cả, đến danh hiệu, quốc-độ và chư Phật cũng đồng.

Lúc đó đức Thế-Tôn, từ nơi các ngón của hai chưn phóng trăm ngàn ức quang-minh màu đẹp chiếu khắp trong cung của Ðế-Thích ở mười phương thế-giới, Phật và đại-chúng đều hiển hiện cả.

Pháp Huệ Bồ-Tát thừa oai-thần của Phật quan-sát khắp mười-phương rồi nói kệ rằng :

Phật phóng tịnh quang-minh

Thấy khắp tất cả Phật

Ðảnh núi Tu-Di-Vương

Ở trong điện Diệu-Thắng.

Tất cả Thiên-Ðế-Thích

Thỉnh Phật vào cung-điện

Ðều nói mười kệ hay

Ca ngợi chư Như-Lai.

Trong các đại hội ấy

Bao nhiêu chúng Bồ-Tát

Ðều từ mười-phương đến

Hóa tòa mà an-tọa.

Bồ-Tát trong hội đó

Danh hiệu đồng chúng tôi,

Những cõi từ đó đến

Danh-tự cũng vẫn đồng;

Bổn-quốc chư Như-Lai

Hồng-danh đều cũng đồng,

Bồ-Tát nơi bổn Phật

Tịnh tu hạnh vô-thượng.

Ðại chúng nên quan-sát

Như-Lai tự-tại-lực

Tất cả Diêm-Phù-Ðề

Ðều nói Phật tại đấy.

Chúng tinh-tấn nay thấy Phật

Trụ nơi đảnh Tu-Di

Thập-phương cũng như vậy

Như-Lai tự-tại-lực.

Trong mỗi mỗi thế-giới

Phát tâm cầu phật-đạo

Nương nơi nguyện như vậy

Tu tập hạnh bồ-đề.

Phật dùng nhiều thân hình

Du hành khắp thế-gian

Pháp-giới không chướng ngại

Không ai trắc lượng được.

Huệ-quang hằng chiếu khắp

Ðời tối đều trừ diệt,

Tất cả không sánh bằng

Thế nào lường biết được !

Nhứt-Thiết-Huệ Bồ-Tát, thừa oai-lực của đức Phật, quan-sát khắp mười-phương rồi nói kệ rằng :

Giả-sử trăm ngàn kiếp

Thường thấy đức Như-Lai

Chẳng y chơn-thật nghĩa

Mà quán đấng Cùu-Thế,

Người này chấp lấy tướng

Thêm lớn lưới mê lầm

Giam trói ngục sanh tử

Ðui mù, chẳng thấy Phật.

Quan-sát nơi các pháp

Ðều không có tự-tánh

Tướng nó, vốn sanh-diệt

Chỉ là danh thuyết giả.

Tất cả pháp vô-sanh

Tất cả pháp vô-diệt

Nếu hiểu được như vậy

Chư Phật thường hiện tiền.

Pháp-tánh vốn không tịch

Vô-thủ, cũng vô-kiến

Tánh không, tức là Phật

Chẳng thể nghĩ lường được.

Nếu biết tất cả pháp

Thể tánh đều như vậy

Người này thời chẳng bị

Phiền-não làm nhiễm trước.

Phàm phu thấy các pháp

Chỉ chuyển theo tướng giả

Chẳng rõ pháp vô-tướng

Do đây chẳng thấy Phật.

Ðức Phật lìa ba thời

Các tướng đều đầy đủ

Trụ nơi vô-sở-trụ

Cùng khắp mà bất-động.

Tôi quán tất cả pháp

Thảy đều được rõ ràng

Nay thấy đức Như-Lai

Quyết-định không nghi ngờ.

Pháp-Huệ trước đã nói

Như-Lai chơn-thiệt tánh,

Tôi từ đó rõ biết

Bồ-đề khó nghĩ bàn.

Thắng-Huệ Bồ-Tát thừa oai-lực của Phật, quan-sát khắp mười-phương rồi nói kệ rằng :

Như-Lai đại trí-huệ

Hi-hữu không sánh bằng

Tất cả những thế-gian

Tư-duy chẳng đến được.

Phàm-phu vọng quan-sát

Chấp tướng chẳng đúng lý

Phật lìa tất cả tướng

Chẳng phải họ biết được.

Kẻ vô-tri mê lầm

Vọng chấp tướng ngũ-uẩn

Chẳng biết chơn-tánh kia

Người này chẳng thấy Phật.

Rõ biết tất cả pháp

Ðều không có tự-tánh

Hiểu pháp-tánh như vậy

Thời thấy Lô-Xá-Na.

Vì do tiền-ngũ-uẩn

Có hậu-uẩn tương-tục

Rõ biết nơi tánh này

Thấy Phật khó nghĩ bàn.

Ví như báu trong tối

Không đèn thời chẳng thấy

Phật-pháp không người nói

Dầu huệ chẳng biết được.

Cũng như mắt bị lòa

Chẳng thấy màu xinh đẹp

Như vậy tâm bất-tịnh

Chẳng thấy các phật-pháp.

Lại như mặt trời sáng

Kẻ mù không thấy được

Tâm không có trí-huệ

Trọn chẳng thấy chư Phật.

Nếu chữa hết bịnh lòa

Bỏ lìa lòng tưởng sắc

Chẳng thấy nơi các pháp

Thời thấy được Như-Lai.

Nhứt-Thiết-Huệ đã nói

Chư Phật Bồ-Ðề pháp

Tôi nghe lời ngài nói

Ðược thấy Lô-Xá-Na.

Công-Ðức-Huệ Bồ-Tát thừa oai-lực của Phật quan-sát khắp mười-phương rồi nói kệ rằng :

Các pháp không chơn-thật

Vọng chấp là chơn-thật

Cho nên các phàm-phu

Luân-hồi ngục sanh-tử.

Nơi ngôn từ thuyết pháp

Tiểu trí vọng phân-biệt

Vì thế sanh chướng-ngại

Chẳng rõ được tự-tâm.

Chẳng rõ được tự-tâm

Ðâu biết được chánh-đạo

Họ do huệ điên-đảo

Thêm lớn mọi điều ác.

Chẳng thấy các pháp không

Hằng thọ khổ sanh-tử

Người này chưa có được

Pháp-nhãn thanh-tịnh vậy.

Xưa kia tôi thọ khổ

Vì tôi chẳng thấy Phật,

Nên phải tịnh pháp-nhãn

Xem kia chỗ đáng thấy.

Nếu được thấy nơi Phật

Thời tâm không chấp lấy

Người này thời thấy được

Pháp của Phật đã biết.

Nếu thấy Phật chơn-pháp

Thời gọi bực đại-trí

Người này có tịnh-nhãn

Hay quan-sát thế-gian.

Không thấy chính là thấy

Hay thấy tất cả pháp

Nơi pháp nếu có thấy

Ðây thời là không thấy.

Tất cả các pháp-tánh

Không sanh cũng không diệt

Lạ thay đấng Ðạo-Sư

Tự-giác hay giác-tha.

Ngài Thắng-Huệ đã nói

Pháp của Như-Lai ngộ

Chúng tôi nghe Ngài nói

Biết được Phật chơn-tánh.

Tinh-Tấn-Huệ Bồ-Tát thừa oai-lực của Phật, quan-sát khắp mười phương rồi nói kệ rằng :

Nếu trụ nơi phân-biệt

Thời hư thanh-tịnh nhãn

Thêm ngu-si, tà-kiến

Trọn chẳng thấy được Phật.

Nếu rõ được tà-pháp

Như thiệt chẳng điên-đảo,

Biết vọng vốn tự chơn

Thấy Phật thời thanh-tịnh.

Có thấy, thời là nhơ

Ðây thời chưa phải thấy

Xa lìa các kiến chấp

Như vậy mới thấy Phật.

Pháp ngôn-ngữ thế-gian

Chúng-sanh vọng phân-biệt

Biết thế đều vô-sanh

Mới là thấy thế-gian.

Nếu thấy 'thấy thế-gian'

'Thấy' là tướng thế-gian

Như thiệt đồng không khác

Ðây gọi người chơn-kiến.

Nếu thấy đồng không khác

Nơi vật chẳng phân-biệt

Thấy này lìa phiền-não

Vô-lậu được tự-tại.

Chỗ chư Phật khai thị

Tất cả pháp phân-biệt

Ðây đều chẳng thể được

Vì pháp-tánh thanh-tịnh.

Pháp-tánh vốn thanh-tịnh

Vô-tướng như hư-không

Tất cả không năng thuyết

Người trí quán như vậy.

Xa lìa nơi pháp-tưởng

Chẳng thích tất cả pháp

Ðây cũng không chỗ tu

Thấy được Ðại-Mâu-Ni.

Như ngài Ðức-Huệ nói

Ðây gọi là thấy Phật;

Chỗ có tất cả hạnh

Thể-tánh đều tịch-diệt.

Lúc đó Thiện-Huệ Bồ-Tát thừa oai-lực của Phật quan-sát khắp mười phương rồi nói kệ rằng :

Hi-hữu đại dũng-kiện

Vô-lượng chư Như-Lai

Ly-cấu tâm giải-thoát

Tự độ hay độ người.

Tôi thấy Thế-gian-Ðăng

Như thật chẳng điên-đảo

Như trong vô-lượng kiếp

Bực đủ trí chỗ thấy.

Tất cả hạnh phàm-phu

Ðều mau về diệt tận

Tánh nó như hư-không

Nên nói là vô-tận.

Người trí nói vô-tận

Ðây cũng không chỗ nói.

Vì tự-tánh vô-tận

Ðược có nan-tư tận.

Trong chỗ nói vô-tận

Không chúng-sanh được có

Biết chúng-tánh như vậy

Thời thấy Ðại-Danh-Xưng.

Không thấy nói là thấy

Vô-sanh nói chúng-sanh

Hoặc thấy, hoặc chúng-sanh

Rõ biết không thể-tánh.

Năng-kiến cùng sở-kiến

Kiến-giả đều khiển trừ,

Chẳng hoại nơi chơn-pháp

Người này rõ biết Phật.

Nếu người rõ biết Phật

Và pháp của Phật nói

Thời hay chiếu thế-gian

Như Phật Lô-Giá-Na.

Chánh-giác khéo khai thị

Ðạo một pháp thanh-tịnh,

Ðại-Sĩ tinh-tấn huệ

Diễn nói vô-lượng pháp.

Hoặc có hoặc không có

Tưởng niệm này đều trừ

Như thế thấy được Phật

An-trụ nơi thiệt-tế.

Lúc đó Trí-Huệ Bồ-Tát thừa oai-lực của Phật quan-sát khắp mườI phương rồi nói kệ rằng :

Tôi nghe pháp tối-thắng

Liền sanh trí-huệ quang

Chiếu khắp mười-phương cõi

Ðều thấy tất cả Phật.

Trong đây không chút vật

Chỉ có danh-tự giả

Nếu chấp có ngã nhơn

Thời là vào đường hiểm.

Những phàm-phu chấp trước

Chấp thân là thiệt có

Phật chẳng phải sở-thủ

Họ trọn chẳng thấy được.

Người này không huệ-nhãn

Chẳng thể thấy được Phật

Ở trong vô-lượng kiếp

Lưu chuyển biển sanh-tử.

Hữu-tránh nói sanh-tử

Vô-tránh là niết-bàn

Sanh-tử và niết-bàn

Cả hai chẳng nói được.

Nếu theo danh-tự giả

Chấp lấy hai pháp này

Người này không đúng thật

Chẳng biết Phật diệu-đạo.

Nếu móng tưởng như vầy :

'Ðây Phật, đây tối-thắng'

Ðiên-đảo chẳng phải thật

Chẳng thấy được Chánh-giác.

Biết được thật thể này

Tướng chơn-như tịch-diệt

Thời thấy đấng Chánh-Giác

Vượt khỏi đường ngữ-ngôn.

Ngôn ngữ nói các pháp

Chẳng hiển được thiệt-tướng

Bình-đẳng mới thấy được

Như pháp, Phật cũng vậy.

Thời quá-khứ chư Phật

Vị-lai và hiện-tại

Dứt hẳn gốc phân-biệt

Thế nên gọi là Phật.

Chơn-Thật-Huệ Bồ-Tát thừa oai-lực của Phật quan-sát khắp mườI phương rồi nói kệ rằng :

Thà thọ khổ địa-ngục

Ðược nghe hồng-danh Phật

Chẳng thích vô-lượng vui

Mà chẳng nghe danh Phật.

Sở-dĩ nơi thời xưa

Chịu khổ vô-số kiếp

Lưu chuyển trong sanh-tử

Vì chẳng nghe danh Phật.

Với pháp chẳng điên-đảo

hiện chứng như thật

Lìa các tướng hòa hiệp

Gọi là Vô-Thượng-Giác.

Hiện chẳng phải hòa hiệp

Khứ, lai cũng như vậy

Tất cả pháp vô-tướng

Ðây là chơn-thể Phật.

Nếu quán được như vậy

Các pháp nghĩa thậm-thâm

Thời thấy tướng chơn thật

Pháp-thân của chư Phật.

Nơi thật thấy chơn-thật

Chẳng thật thấy chẳng thật

Hiểu rốt ráo như vậy

Cho nên gọi là Phật.

Phật-pháp chẳng giác được

Rõ đây gọi 'giác pháp'

Chư Phật tu như vậy

Một pháp bất-khả-đắc.

Biết do một nên nhiều

Biết do nhiều nên một

Các pháp không chỗ tựa

Chỉ do hòa hiệp khởi.

Không năng-tác, sở-tác

Chỉ từ nghiệp tưởng sanh

Tại sao biết như vậy

Vì khác đây không có.

Tất cả pháp vô-trụ

Ðịnh-xứ bất-khả-đắc

Chư Phật trụ nơi đây

Rốt ráo không dao động.

Vô-Thượng-Huệ Bồ-Tát thừa oai-lực của Phật quan-sát khắp mườI phương rồi nói kệ rằng :

Ðấng đại-thừa vô-thượng

Xa lìa tưởng chúng-sanh

Không có ai hơn được

Nên hiệu là Vô-Thượng.

Chỗ chư Phật đã được

Vô-tác, vô-phân-biệt

Thô-thần-thông vô-sở-hữu

Vi-tế cũng như vậy.

Cảnh chư Phật sở-hành

Trong đó không có số

Là chơn-pháp của Phật.

Như-Lai quang chiếu khắp

Diệt trừ những tối-tăm

Quang này chẳng có chiếu

Cũng chẳng phải không chiếu.

Nơi pháp không chỗ chấp

Không niệm cũng không nhiễm

Không trụ không xứ sở

Chẳng hoại nơi pháp-tánh.

Trong đây không có hai

Cũng lại không có một

Bực đại-trí thấy đúng

Kheó an-trụ thật lý.

Trong không, không có hai

Không hai cũng như vậy

Tam-giới tất cả không

Là chỗ thấy chư Phật.

Phàm-phu không hay biết

Phật khiến trụ chánh-pháp

Các pháp vô-sở-trụ

Ngộ đây thấy tự thân.

Chẳng thân mà nói thân

Chẳng khởi mà hiện khởi

Không thân cũng không thấy

Là Phật-thân vô-thượng.

Như ngài Thật-Huệ nói

Chư Phật diệu pháp-tánh

Nếu người nghe pháp này

Sẽ được thanh-tịnh-nhãn.

Lúc đó Kiên-Cố-Huệ Bồ-Tát thừa oai-lực của Phật quan-sát khắp mười phương rồi nói kệ rằng :

Vĩ-đại ! quang-minh lớn

Bực vô-thượng dũng kiện

Vì lợi ích quần-sanh

xuất hiện thế-gian.

Phật dùng tâm đại-bi

Quan-sát khắp chúng-sanh

Thấy ở trong ba cõi

Luân-hồi thọ nhiều khổ.

Chỉ trừ đấng Chánh-Giác

Ðấng Ðạo-Sư đủ sức

Tất cả các Trời Người

Không ai cứu hộ được.

Nếu chư Phật Bồ-Tát

Chẳng xuất hiện thế-gian

Thời không một chúng-sanh

Có thể được an-lạc.

Như-Lai đẳng-chánh-giác

Và các chúng Thánh Hiền

Xuất hiện ở thế-gian

Cho chúng-sanh được vui.

Nếu ai thấy Như-Lai

Vì được lợi hành lớn

Nghe hiệu Phật sanh tin

Thời là tháp thế-gian.

Chúng tôi thấy Như-Lai

Vì được lợi ích lớn

Nghe diệu-pháp như vậy

Ðều sẽ thành Phật-đạo.

Chư Bồ-Tát quá-khứ

Do thần-lực của Phật

Ðược huệ-nhãn thanh-tịnh

Rõ cảnh-giới chư Phật.

Nay thấy Lô-Xá-Na

Càng thêm thanh-tịnh-tính

Phật-trí không ngằn mé

Diễn thuyết chẳng thể hết.

Thắng-Huệ Bồ-Tát thảy

Và tôi Kiên-Cố-Huệ

Trong vô-số ức kiếp

Cũng nói chẳng thể hết.

 

************************

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15607)
Đại chánh tân tu số 0016, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13780)
Đại chánh tân tu số 0015, Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13170)
Đại chánh tân tu số 0014, Hán dịch: Sa Môn An Thế Cao, Việt dịch: Thích Chánh Lạc và Tâm Hạnh
(Xem: 13620)
Kinh Bát Nê Hoàn (Đại Chánh Tân Tu số 0006) - Thích Chánh Lạc dịch
(Xem: 12516)
Kinh Phật Bát Nê Hoàn (Đại Chánh Tân Tu số 0005) - Bạch Pháp Tổ; Thích Chánh Lạc dịch
(Xem: 12118)
Kinh Thất Phật Phụ Mẫu Tánh Tự (Đại Chánh Tân Tu số 0004) - Thích Chánh Lạc dịch
(Xem: 12940)
Kinh Phật Tỳ Bà Thi (Đại Chánh Tân Tu số 0003) Hán Dịch: Tống Pháp Thiên, Việt dịch: Thích Tâm Hạnh
(Xem: 13035)
Kinh Thất Phật (Đại Chánh Tân Tu số 0002) Hán Dịch: Tống Pháp Thiên, Việt dịch: Thích Tâm Hạnh
(Xem: 13271)
Đức Phật dạy: Ai muốn tin Ta, làm đệ tử Ta, cần phải đủ trí quán sát, mới tin; không rõ nguyên nhân Ta, mà tin Ta ấy là phỉ báng Ta... HT Thích Hành Trụ dịch
(Xem: 21381)
Thiện Ác Nghiệp Báo (Chư Kinh Yếu Tập) Đại Chánh Tân Tu số 2123 - Nguyên tác: Đạo Thế; Thích Nguyên Chơn dịch
(Xem: 143951)
Đại Tạng Việt Nam bao gồm 2372 bộ Kinh, Luật và Luận chữ Hán và tất cả đã kèm Phiên âm Hán Việt...
(Xem: 15705)
Đại Chánh Tân Tu số 0018 - Hán dịch: Ðại Sư Pháp Hiền (đời Tống), Việt Dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 81355)
Kinh Nhật Tụng - Kinh Tụng Hằng Ngày
(Xem: 19612)
Kinh Trường Thọ Diệt Tội Hộ Chư Đồng Tử Đà La Ni - Đời Đường, nước Kế Tân, Tam Tạng Sa môn Phật Đà Ba Ly vâng chiếu dịch, Việt dịch: Sa-môn Thích Thiện Thông.
(Xem: 20263)
Kiền Long Đại Tạng Kinh bao gồm 168 tập, chứa đựng 1669 bộ Kinh văn... Tổng hợp Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 19295)
Kinh Vô Lượng Nghĩa - Tam tạng pháp sư Đàm Ma Già Đà Da Xá, người Thiên-trúc, dịch từ Phạn văn ra Hán văn tại Trung-quốc, vào đời Tiêu-Tề; Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn
(Xem: 15219)
Kinh Hạnh Nguyện Phổ Hiền - Tam Tạng pháp sư Bát Nhã, người nước Kế-tân, dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào đời Đường; Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn
(Xem: 13098)
Có lần Đấng Thế Tôn ngụ tại vùng của bộ tộc Thích-ca (Sakka) tại thành Ca-tì-la-vệ (Kapilavatthu) trong khu vườn Ni-câu-đà (Nigrodha).
(Xem: 13162)
Đây là những điều tôi nghe Bụt nói vào một thời mà người còn lưu trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ Đà. Hôm ấy, cư sĩ Cấp Cô Độc cùng với năm trăm vị cư sĩ khác đã tìm đến nơi cư ngụ của thầy Xá Lợi Phất.
(Xem: 49046)
Trong khế kinh, Đức Phật nói. "Chỉ vì đại sự nhơn duyên duy nhấtĐức Phật xuất hiện thế gian, đó là muốn mọi người, mọi chúng sanh đều thành Phật đồng như Đức Phật"... HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 14818)
Pháp Hoa Tông Yếu, Thứ tự kinh văn số 1725 trong Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh do Ngài Nguyên Hiểu sọan chữ Hán, Sa Môn Thích Như Điển dịch.
(Xem: 18651)
Bộ Pháp Hoa Huyền Nghĩa xuất bản hôm nay không có một liên quan nào, về mọi phương diện, với những bộ Kinh danh đề tương tựchúng ta thấy trong Đại tạng... Chánh Trí Mai Thọ Truyền
(Xem: 16448)
Tỳ Kheo Huệ Chiểu chùa Đại Vân ở Chuy Châu sọan, Sa Môn Thích Như Điển Phương Trượng chùa Viên Giác Hannover Đức Quốc dịch từ Tiếng Hán sang tiếng Việt trên chuyến Hoằng Pháp Âu Châu năm 2013
(Xem: 19417)
Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Văn Cú - Do HT Thích Như Điển dịch Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh
(Xem: 28071)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, các đệ tử tiếp tục truyền bá giáo lý của ngài trong nhân gian. Đồng thời, để bảo đảm giáo lý của ngài một cách trung thực cho hậu thế, họ đã gom lại kết tập để soạn thành một tập toàn bộ kinh điển.
(Xem: 22209)
Suốt trong 45 năm thuyết pháp, đức Phật đã nói rất nhiều Pháp ngữ, bao gồm nghĩa lý thâm thiết để cởi mở nghiệp khổ cho chúng sanh... HT Thích Thiện Siêu dịch
(Xem: 23352)
Thiện nam tử! Có một loại pháp Bồ tát nên diệt trừ. Ðó là pháp tham. Thiện nam tử ! Ðây là một pháp phải nên diệt trừ vĩnh viễn.
(Xem: 64899)
Một thuở nọ Thế-tôn an-trụ Xá-vệ thành Kỳ-thụ viên trung, Mục-liên mới đặng lục-thông, Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm-luân.
(Xem: 33272)
Thế Tôn, nếu con nghĩ rằng con đắc đạo A La Hán, thì Thế Tôn chẳng nói Tu Bồ Đề là một hành giả thanh tịnh hạnh. Vì Tu Bồ Đề vốn là vô sở hành...
(Xem: 40223)
Tam thế chư Phật, chư Đại-Bồ-tát, thật chứng và nhập một với Pháp-giới-tính nên phát-khởi vô-duyên đại-từ, đồng-thể đại-bi, hiện ra vô số thân, theo duyên hóa-độ vô-lượng vô-biên chúng-sinh...
(Xem: 27366)
Kinh Trường Bộ thi hóa (3 tập) - Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli - Chuyển thể Thơ: Giới Lạc Mai Lạc Hồng
(Xem: 74958)
Kinh chữ Hán - ĐĐ. Thích Hạnh Phú sưu tầm & biên soạn
(Xem: 36185)
Sắc là vô thường. Vô thường tức là khổ. Khổ tức là chẳng phải ta. Cái gì chẳng phải ta thì cũng chẳng phải sở hữu của ta. Quán sát như vậy gọi là chân thật chánh quán.
(Xem: 49034)
Người nhất tâm nghe kinh có hai hạng: nghe rồi thọ trì pháp và nghe rồi không thọ trì pháp. Người nghe rồi thọ trì pháp là hơn, người nghe rồi không thọ trì pháp là kém.
(Xem: 31049)
Nếu dùng hình sắc để thấy ta, Dùng âm thanh để cầu ta, Người nầy hành tà đạo, Chẳng thể thấy Như Lai... HT Thích Như Điển
(Xem: 33982)
Kinh Bại Vong (Parabhava-sutta) rút từ Tập Kinh (Suttanipata), kệ số 91-115, trang 18-20, Pali Text Society... HT Thích Thiện Châu dịch
(Xem: 58878)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại Trúc Y Ðạo tràng trong thành Thất-la-phiệt, cùng các vị đại Tỳ-khưu chúng gồm 1.250 người đều đầy đủ.
(Xem: 46303)
“Ðức Thế Tôn nghe Phạm vương ba lần ân cần thưa thỉnh, liền dùng Phật nhãn soi khắp thế giới chúng sanh, thấy sự ô nhiễm của chúng sanh có dày có mỏng...
(Xem: 43861)
Khi Đức Phật nói danh hiệu chư Phật đời quá khứ, có mười ngàn Bồ Tát, được Vô sinh nhẫn, tám trăm Thanh Văn, phát thiểu phận tâm, năm ngàn Tỷ khưu...
(Xem: 43253)
Kinh vừa là Kinh Phật, lại vừa là miệng Phật. Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã...
(Xem: 45981)
Này các Kàlàmà, chớ có tin vì nghe báo cáo, chớ có tin vì nghe truyền thuyết; chớ có tin vì theo truyền thống; chớ có tin vì được kinh điển truyền tụng...
(Xem: 48065)
Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Trọn bộ 11 tập - 600 cuốn; Hán dịch: Huyền Trang, Việt dịch: HT Thích Trí Nghiêm
(Xem: 34656)
Nếu kẻ nam tử người nữ nhơn thân có tai ách, trong nhà nên an trí tháp xá-lợi và hình tượng Phật, họa vẽ tượng đức Văn-thù-sư-lợi Đồng tử, thiêu các thứ hương...
(Xem: 33468)
Phật dạy A-nan: “Đời quá khứ, cõi Diêm-phù-đề này có một vị Tỳ-khưu tên là Truyền Giáo. Ngày 15 tháng chín đi du hành về phương Bắc, cách nước Chi Na không xa...
(Xem: 43959)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 52982)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh...Nguyễn Minh Tiến; Đoàn Trung Còn
(Xem: 40513)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43515)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 31480)
Nakulapita là một người chủ gia đình sinh sống trong vùng Bhagga, đã trọng tuổithường hay đau yếu. Ông rất kính mến Đức PhậtĐức Phật cũng xem ông như một người con của mình.
(Xem: 28726)
"Có một lần Đấng Thế Tôn lưu ngụ với những người dân trong vùng Bhagga, gần thị trấn Sumsumaragiri, thuộc khu rừng Lộc Uyển...
(Xem: 31921)
Lúc bấy giờ, rừng cây Ta La ở thành Câu Thi Na, rừng ấy biến thành màu trắng giống như con hạc trắng. Ở trong hư không tự nhiên mà có tòa lầu các bảy báu với những hoa văn...
(Xem: 28863)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Các vị Đại Bồ Tát nên hàng phục tâm như thế này: ‘Đối với tất cả các loài chúng sinh, hoặc sinh từ bào thai, hoặc sinh từ trứng, hoặc sinh nơi ẩm thấp, hoặc do biến hóa sinh ra...
(Xem: 33400)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0376, Hán dịch: Đời Đông Tấn, Sa-môn Pháp Hiển, Việt dịch: Thích Nguyên Hùng
(Xem: 29172)
Gương trí vằng vặc của Như Lai cũng như thế, là pháp giới vắng lặng không có gián đoạn không có dao động, vì muốn giúp vô lượng vô số chúng sanh thấy rõ nhiễm-tịnh...
(Xem: 61026)
Kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni - một trong các pháp môn - là trí ấn của tất cả Như Lai, mầu nhiệm rộng sâu, khác chi thuyền bè trong biển ba đào, nhật nguyệt giữa trời u ám.
(Xem: 39811)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 29702)
Trong Kiến Đàn Giải Uế Nghi của Thủy Lục Chư Khoa có lời tán thán bồ tát Quán Thế Âm rằng: “Nhân tu sáu độ, quả chứng một thừa, thệ nguyện rộng sâu như biển lớn mênh mông không thể đo lường...
(Xem: 37417)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 26869)
Nếu các chúng sanh ác tâm hướng nhau, hãy xưng danh hiệu Địa Tạng Bồ-tát, nhất tâm quy y, khiến chúng sanh kia nhu hòa nhẫn nhục, hổ thẹn với nhau, từ tâm sám hối...
(Xem: 42704)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant