- Chương 01: Ý Nghĩa Chơn Thật Về Công Đức Của Như Lai
- Chương 02: Mười Điều Nhận Lãnh
- Chương 03: Ba Lời Nguyện
- Chương 04: Nhiếp Thụ
- Chương 05: Nhất Thừa
- Chương 06: Vô Biên Thánh Đế
- Chương 07: Như Lai Tạng
- Chương 08: Pháp Thân
- Chương 09: Không Nghĩa Ân Phú Chân Thật
- Chương 10: Một Thánh Đế
- Chương 11: Một Sở Y
- Chương 12: Điên Đảo và Chân Thật
- Chương 13: Tự Tánh Thanh Tịnh
- Chương 14: Chân Thật Đệ Tứ
- Chương 15: Thắng Man
KINH
THẮNG MAN
Pháp Sư TAM TẠNG đời nhà TỐNG (người Trung Ấn Độ) dịch
Hoà Thượng Thích Thanh Từ Việt dịch
Phật bảo Thắng
Man: " Ngươi nay hãy nói lại những gì tất cả chư Phật đã nói về nhiếp thụ
chánh pháp".
Thắng Man bạch
Phật: "Hay thay Thế Tôn, con xin vâng lời dạy bảo".
Rồi bạch Phật
rằng:
- Thưa Thế
Tôn, nhiếp thụ chánh pháp tức Ma ha diễn. Bởi vì sao ? Vì Ma ha diễn sinh ra
tất cả pháp lành Thanh văn, Duyên giác thế gian và xuất thế gian.
- Thưa Thế
Tôn, như ao A nậu to lớn phát sanh các con sông lớn, Ma ha diễn cũng sanh ra
tất cả pháp lành Thanh văn, Duyên giác thế gian và xuất thế gian.
- Thưa Thế Tôn,
cũng như tất cả hạt giống đều từ đất sinh trưởng, tất cả các pháp lành của
Thanh văn Duyên giác thế gian và xuất thế gian cũng thế đều từ pháp đại thừa mà
được tăng trưởng.
Cho nên thưa Thế
Tôn, trụ nơi đại thừa nhiếp thụ đại thừa tức là trụ nơi nhị thừa nhiếp thụ tất
cả pháp lành thế gian và xuất thế gian của nhị thừa như Thế Tôn nói sáu pháp.
Sáu pháp là gì ? Là chính pháp trụ, chính pháp diệt, Ba la đề mộc xoa, tỳ ni,
xuất gia, thọ cụ túc. Vì đại thừa mà nói sáu pháp này.
Bởi vì sao ? Vì
nói chánh pháp trụ là vì đại thừa mà nói. đại thừa trụ tức chánh pháp trụ. Nói
chánh pháp diệt là vì đại thừa mà nói. Vì đại thừa diệt tức chánh pháp diệt. Ba
la đề mộc xoa và tỳ ni, hai pháp này một nghĩa mà hai tên, Tỳ ni là cái học của
đại thừa.
Bởi vì sao ? Vì
y theo Phật xuất gia mà thọ cụ túc, nên nói đại thừa oai nghi giới là tỳ
ni, là
xuất gia là thọ cụ túc. Vì thế A la hán không xuất gia thọ cụ túc.
Bởi vì sao ? Vì
A la hán y theo Như Lai xuất gia thọ cụ túc, nên A la hán quy y Phật, A la hán
có nỗi sợ hãi.
Bởi vì sao ? Vì
A la hán đối với tất cả vô hành vẫn còn tâm tưởng sợ hãi như người cầm kiếm
muốn đến hại mình.
Cho nên A la hán
không có cái vui cứu cánh
Bởi vì sao ?
Thưa Thế Tôn, quy y là quy y với bậc không phải y vào ai nữa. Như chúng sanh
không nơi nương tựa chúng sợ hãi, vì sợ hãi mà cầu quy y. Như A la hán có sợ
hãi, vì sợ hãi mà quy y Như Lai.
- Thưa Thế
Tôn, A la hán, Bích chi Phật có sợ hãi nên A la hán, Bích chi Phật là hữu dư,
sinh pháp không diệt hết nên có sinh. Phạm hạnh chưa tròn nên không thuần. Sự
chưa rốt ráo nên còn sở tác. Vượt thoát chưa hết nên còn phải đoạn diệt.
Do
không đoạn diệt hết nên cách cảnh giới Niết bàn còn xa.
Bởi vì sao ? Vì
chỉ Như Lai ứng chánh đẳng giác được Niết bàn trọn vẹn, thành tựu tất cả
công
đức. Còn A la hán, Bích chi Phật không thể thành tựu tất cả công đức. Nói được
Niết bàn là Phật phương tiện nói.
Vì chỉ Như Lai
mới được Niết bàn trọn vẹn thành tựu vô lượng công đức không thể nghĩ bàn. còn
A la hán, Bích chi Phật thành tựu A la hán còn nghĩ bàn được. Nói được Niết bàn
là Phật phương tiện nói.
Vì chỉ Như Lai
mới được Niết bàn trọn vẹn. Tất cả lỗi lầm phải đoạn trừ đã đoạn trừ hết, thành
tựu thanh tịnh cao tột. Còn A la hán, Bích chi Phật có lỗi lầm còn sót, chưa
phải thanh tịnh cao tột. Nói được Niết bàn là Phật phương tiện nói.
Vì chỉ Như Lai
nói được Niết bàn trọn vẹn là bậc cho tất cả chúng sanh chiêm ngưỡng, vượt quá
cảnh giới A la hán, Bích chi Phật và Bồ tát nên A la hán, Bích chi Phật cách
cảnh giới Niết bàn còn xa.
Nói A la hán,
Bích chi Phật quán sát giải thoát, cứu cánh được bốn trí, đạt tới an trụ
Niết
bàn, cũng là Như Lai phương tiện nói, chưa rốt ráo chưa hết ý.
Bởi vì sao? Vì
có hai thứ chết, hai thứ là gì? Là chết phần đoạn và chết biến dịch không thể
nghĩ bàn. Chết phần đoạn là cái chết của chúng sanh hư ngụy. Chết biến dịch không
thể nghĩ bàn là chỉ y sinh thân của A la hán, Bích chi Phật, đại lực Bồ tát
trong tiến trình đến cứu cánh vô thượng Bồ đề.
Trong hai cái
chết, đứng về chết phần đoạn thì trí A la hán, Bích chi Phật có thể nói được là
"đời ta đã hết" được quả hữu dư, nên nói "phạm hạnh đã lập"
phàm phu người và trời chưa làm xong, người học trong bảy chúng chưa làm
được,
còn A la hán, Bích chi Phật đã đoạn các phiền não hư ngụy nên nói "đã làm
xong" A la hán, Bích chi Phật đoạn được các phiền não không thụ hậu hữu
lại nên nói "không thụ hậu hữu" chứ không phải đã diệt tất cả phiền
não cũng không phải là chấm dứt tất cả sự thụ sinh mà nói là không thụ hậu
hữu.
Bởi vì sao
? Vì có những phiền não mà A la hán, Bích chi Phật không đoạn được. Phiền não
có hai thứ. Hai thứ là gì ? Là trụ địa phiền não và khởi phiền não.
Trụ địa có bốn
thứ. Bốn thứ là gì ? Là kiến nhất xứ trụ địa, dục ái trụ địa, sắc ái trụ
địa và
hữu ái trụ địa.
Bốn thứ trụ địa
này sinh ra tất cả khởi phiền não. Khởi phiền não là tâm sát na duyên theo cảnh
thì phiền não sát na tương ưng.
- Thưa Thế
Tôn ! Tâm không tương ưng vô thủy vô minh trụ địa.
- Thưa Thế
Tôn ! Sức của bốn trụ địa này làm chỗ dựa cho tất cả thường phiền não nảy sinh,
nhưng so với vô minh trụ địa thì dù tính toán thí dụ cũng không sao bì
kịp.
- Thưa Thế
Tôn ! Như vậy vô minh trụ địa đối với hữu ái và số bốn trụ địa sức của vô minh
trụ địa lớn hơn cả.
Ví như ác ma ba
tuần, sắc lựïc, thọ mạng, quyến thuộc, vật dụng sự tự tại hơn hẳn trời Tha hóa
tự tại. Cũng như thế sức lực của vô minh trụ địa hơn cả so với hữu ái và
số bốn
trụ địa.
Số thượng phiền
não như cát sông Hằng đều dựa vào vô minh này mà thành lập, đồng thời cũng
khiến bốn thứ phiền não tồn tại lâu dài. Trí của A la hán, Bích chi Phật
không thể
đoạn được. Chỉ trí giác ngộ của Như Lai mới đoạn trừ được mà thôi.
Như vậy thưa Thế
Tôn ! Vô minh trụ địa có sức lớn nhất.
Lại như thủ
duyên nghiệp nhân hữu lậu sanh tam hữu, cũng thể vô minh trụ địa duyên nghiệp
nhân vô lậu sanh ra ba thứ ý sinh thân của A la hán, Bích chi Phật và đại lựïc
Bồ tát.
Ba bậc này là sự
sinh của ba thứ ý sinh thân kia, cùng sự sinh của nghiệp vô lậu đều do từ ý vô
minh trụ địa ra. Rõ ràng vô minh và chúng có tác duyên với nhau mới có sinh,
chứ không phải không duyên mà có. Cho nên, ba thứ ý sinh và nghiệp vô lậu đều
duyên vô minh trụ địa.
- Thưa Thế
Tôn ! Như vậy hữu ái trụ địa và số bốn trụ địa không đồng nghiệp với vô minh
trụ địa. Sự phân ly của vô minh trụ địa khác sự phân ly của bốn trụ địa.
Đến
Phật địa mới đoạn trí Bồ đề của Phật mới đoạn được.
Bởi vì sao ? Vì
A la hán, Bích chi Phật đoạn trừ bốn thứ trụ địa nhưng không tột cùng vô
lậu
không được sức tự tại cũng không chứng được. Chỗ không tột cùng vô lậu đó là vô
minh trụ địa.
- Thưa Thế
Tôn ! A la hán, Bích chi Phật và tối hậu thân Bồ tát còn bị vô minh trụ địa
ngăn che nên đối với tất cả pháp không thấu triệt, không giác ngộ. Do không
thấy biết tỏ rõ thấu suốt ấy nên đối với cái phải đoạn trừ không đoạn trừ được,
không rốt ráo được. Do không đoạn được nên gọi là hữu dư quá giải thoát,
chứ
không phải ly nhất thiết quá giải thoát, gọi là hữu dư thanh tịnh chứ không
phải nhất thiết thanh tịnh gọïi là thành tựu hữu dư công đức, chứ không phải
nhất thiết công đức. Do chỉ mới thành tựu hữu dư giải thoát, hữu dư thanh tịnh,
hữu dư công đức nên chỉ mới biết cái khổ hữu dư, đoạn cái tập hữu dư, chứng cái
diệt hữu dư, tu cái đạo hữu dư. Như thế gọi là được thiểu phần Niết bàn.
Được
thiểu phần Niết bàn gọi là hướng Niết bàn giới.
Nếu biết tất cả
khổ, đoạn tất tập, chứng tất cả diệt, tu tất cả đạo thì trong thế gian vô
thường hoại vô thường bệnh được thường trú Niết bàn, trong thế gian không nơi che
chở, không nơi nương tựa làm nơi che chở nương tựa cho thế gian.
Vì cớ sao ? Vì
pháp không ưu liệt nên được Niết bàn. Trí huệ bình đẳng nên được Niết bàn. Giải
thoát bình đẳng nên được Niết bàn. Thanh tịnh bình đẳng nên được Niết bàn. Cho
nên Niết bàn chỉ có một vị bình đẳng. Đó là vị giải thoát.
- Thưa Thế
Tôn ! Nếu vô minh trụ địa không đoạn, đoạn không rốt ráo thì không được cái
nhất vị bình đẳng là vị giải thoát vô minh.
Bởi vì sao? Vì
vô minh trụ địa không đoạn, đoạn không rốt ráo được các pháp phải đoạn nhiều
hơn số cát sông Hằng, nên đối với tất cả pháp nhiều hơn số cát sông Hằng
cần
phải đạt thì không đạt được, cần phải chứng thì không thể chứng. Cho nên
vô
minh trụ địa tích tụ sinh ra tất cả tu đạo đoạn phiền não, thượng phiền
não,
Vô minh trụ địa
kia sinh ta tââm thượng phiền não chỉ thượng phiền não, quán thượng phiền não,
thiền thượng phiền não, chính thụ thượng phiền não, phương tiện thượng phiền não,
trí thượng phiền não, quả thượng phiền não, đắc thượng phiền não, vô úy thượng
phiền não.
Tất cả những
thượng phiền não nhiều hơn số cát sông Hằng ấy, trí Bồ đề của Như Lai đoạn trừ
hết. Tất cả đều từ vô minh trụ địa kiến lập tất cả thượng phiền não khởi
lên
đều nhân vô minh trụ địa duyên vô minh trụ địa mà ra cả.
- Thưa Thế
Tôn ! Từ đời đó khởi lên các phiền não, tận sát na duyên cảnh thì phiền não sát
na tương ưng.
- Thưa Thế Tôn !
Tâm không tương ưng vô thủy vô minh trụ địa.
- Thưa Thế Tôn !
Nếu các pháp mà trí Bồ đề của Như Lai đoạn trừ còn nhiều hơn số cát sông
Hằng,
thì tất cả pháp ấy đều do vô minh trụ địa duy trì và kiến lập. Ví như tất cả
mọi hạt giống đều từ đất sanh ra, kiến lập và tăng trưởng. Nếu đất bị hủy hoại
chúng cũng sẽ bị hủy hoại theo. Cũng thế, các pháp mà trí Bồ đề của Như Lai
đoạn trừ nhiều hơn số cát sông Hằng ấy, tất cả đều từ vô minh trụ địa sinh ra
kiến lập và tăng trưởng. Nếu vô minh trụ địa đoạn được thì các pháp nhiều hơn
số cát sông Hằng mà trí Bồ đề của Như Lai đoạn trừ kia cũng đoạn diệt theo.
Như thế là đoạn
hết tất cả phiền não, thượng phiền não, đối với tất cả pháp sở đắc của Như Lai
nhiều hơn số cát sông Hằng được thông đạt vô ngại tất cả tri kiến, lìa tất cả
lỗi lầm, được tất cả công đức, tự tại như pháp vương pháp chủ, bước lên địa vị
tự tại đối với tất cả pháp.
Như Lai ứng
chánh đẳng giác là bậc nói lên tiếng nói chân thật không sợ hãi như tiếng sư tử
rống rằng "Đời ta đã hết phạm hạnh đã lập việc làm đã xong, không thụ hậu
hữu". Cho nên Thế Tôn đã dùng tiếng rống của con sư tử y theo nghĩa rốt
ráo mà nói thẳng như vậy.
- Thưa Thế Tôn !
Có hai loại bất thụ hậu hữu trí. Nghĩa là Như Lai là bậc vô thượng điều ngự
hàng phục bốn ma, ra khỏi tất cả thế gian, được tất cả chúng sanh chiêm ngưỡng,
được pháp thân không thể nghĩ bàn, trong tất cả bậc trí Bát nhã, được pháp tự
tại vô ngại không còn bậc nào cao hơn phải bàn, không còn địa vị nào cao
hơn để
đạt tới, mười lực dõng mãnh bước lên địa vị đệ nhất vô thượng úy. Tất cả
trí
bát nhã trí quán vô ngại không cho ai khác, đó là bậc thụ hậu hữu, trí quyết định
đạo lý chân thật như tiếng rống con sư tử.
-Thưa Thế Tôn
! A la hán, Bích chi Phật khi vượt qua nỗi sợ hãi của sinh tử, theo cấp độ được
cái vui giải thoát sinh ý tưởng cứu cánh rằng: "Ta đã lìa khỏi nỗi sợ hãi
của sanh tử, không còn chịu nỗi khổ sanh tử".
- Thưa Thế
Tôn ! A la hán, Bích chi Phật khi quán sát, được cái quán trí bất thụ hậu hữu
Niết bàn an nghĩ cao tột.
- Thưa Thế
Tôn ! A la hán, Bích chi Phật kia ở địa vị mới đạt được, không ngu muội đối với
pháp sở đắc, thấy không do ai khác và cũng tự biết rằng được địa vị hữu dư thì
chắc chắn sẽ được A nậu Đa la tam miệu tam Bồ đề.
Bởi vì sao ? Vì
Thanh văn, Duyên giác thừa đều nhập vào đại thừa. Đại thừa tức là Phật thừa.
Cho nên tam thừa tức là nhất thừa. Được nhất thừa tức là được A nậu đa la tam
miệu tam Bồ đề. A nậu đa la tam miệu tam Bồ đề tức cảnh giới Niết bàn. Cảnh
giới Niết bàn tức Như Lai pháp thân. Được pháp thân cứu cánh thì được nhất thừa
cứu cánh, không khác Như Lai không khác pháp thân Như Lai tức pháp thân,
được
pháp thân cứu cánh thì cứu cánh được nhất thừa. Cứu cánh tức vô biên bất
đoạn.
- Thưa Thế Tôn !
Như Lai thường trụ vô hạn thời gian. Như Lai ứng chánh đẳng giác về sau cũng
thường trú như vậy. Như Lai tâm đại bi vô hạn, hạnh an úy thế gian cũng vô hạn,
đại bi vô hạn, an úy thế gian vô hạn, nói thế tức khéo ca ngợi, công đức
Như
Lai. Nếu lại nói Như Lai là pháp vô tận, là pháp thường trú, là nơi cho tất cả
thế gian quy y, nói thế cũng là khéo ca ngợi công đức của Như Lai. Cho nên đối
với thế gian chưa được độ thoát, đối với thế gian không nơi nương tựa, cho đến
tột cùng vị lai, bậc hằng làm nơi quy y vô tận, làm bậc thường trú quy y, gọi
là Như Lai ứng Chánh đẳng giác.
Pháp là nói đạo
nhất thừa, Tăng là chúng tam thừa. Hai quy y này chưa phải cứu cánh quy y
mà là
thiểu phần quy y. Bởi vì sao ? Vì pháp nói đạo nhất thừa được pháp thân cứu
cánh mà trên đó lại không nói đến pháp thân nhất thừa. chúng tam thừa vì
có nỗi
sợ hãi mà quy y Như Lai cầu xuất gia tu học, hướng đến A nậu đa la tam miệu tam
Bồ đề. Cho nên hai quy y này chưa phải quy y rốt ráo mà là quy y còn giới hạn.
Nếu có chúng
sanh được Như Lai điều phục quy y Như Lai, được thấm nhuần đạo pháp, sinh lòng
tin vui yêu thích mà quy y pháp tăng, thì hai quy y này không phải hai quy y ấy
mà là quy y Như Lai. Quy y đệ nhất nghĩa là quy y Như Lai. Hai quy y này, quy y
đệ nhất nghĩa là cứu cánh quy y Như Lai. Bởi vì sao? Vì pháp tăng không khác
Như Lai, Như Lai không không khác hai, quy y Như Lai tức quy y đủ ba.
Bởi vì sao ? Vì
nói đạo nhất thừa là nói Như Lai thành tựu bốn thứ không sợ hãi, như tiếng rống
sư tử. Còn Như Lai có tùy theo ý muốn nhỏ hẹp của nhị thừa mà phương tiện nói,
thì đó cũng là đại thừa, không có tam thừa, tam thừa nhập vào trong nhất
thừa.
Nhất thừa tức là đệ nhất nghĩa thừa hay là Phật thừa.