Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 10: Kệ Tụng (2)

09 Tháng Mười 201000:00(Xem: 8380)
Chương 10: Kệ Tụng (2)

Nói chỗ sinh và diệt

Đều lìa nơi hữu vô

Mà không hoại nhân quả

Thế gian sa nhị biên

Bị các kiến mê hoặc

Nguyện xin đấng Mắt Xanh

Nói thứ lớp các địa

Thủ, sinh, cùng bất sinh

Không rõ nhân tịch diệt

Đạo tràng không chỗ được

Ta cũng không nói gì

Pháp sát na đều không

Không sinh không tự tính

Các Phật đã sạch hai

Có hai tức thành lỗi

Bị các kiến che lấp

Phân biệt không phải Phật

Tưởng tượng ra sinh diệt

Nguyện vì chúng con nói

Tích tập các hí luận

Do hòa hiệp mà sinh

Tùy chủng loại hiện ra

Sắc cảnh đều đầy đủ

Thấy các ngoại sắc rồi

Bèn khởi ra phân biệt

Nếu hiểu được chỗ ấy

Tức thấy nghĩa chân thật

Đều lìa nơi đại chủng

Các Phật đều không thành

Đại chủng đã duy tâm

Nên biết không gì sinh

Tất thuận chủng tính thánh

Chớ phân biệt phân biệt

Không phân biệt là trí

Phân biệt nơi phân biệt

Là hai, không Niết Bàn

Nếu lập tôn vô sinh

Tất hoại cái huyễn pháp

Nếu không nhân khởi huyễn

Tổn giảm tự tôn mình

Ví như bóng trong gương

Tuy lìa tính một, khác

Chỗ thấy không phải không

Tướng sinh cũng như vậy

Như Càn thành, vật huyễn

Tức đối nhân duyên

Các pháp cũng như vậy

Tuy sinh mà không sinh

Phân biệt nơi nhân pháp

Mà khởi hai thứ ngã

Đây chỉ thế tục nói

Kẻ ngu không biết rõ

Do nguyện và tập khí

Tự lựctối thắng

Thứ năm pháp Thanh Văn

Mà có các La Hán

Thời gianhoại diệt

Thắng giải cùng đổi dời

Bốn thứ vô thường ấy

Ngu phân biệt, không (phải) trí

Kẻ ngu đọa nhị biên

Vi trần, tự tính (praktri), tác (Kàrapa)

Vì chấp tôn hữu, vô

Không biết nhân giải thoát

Đại chủng trái nghịch nhau

Đâu hay khởi sắc tướng

Chỉ là tính đại chủng

Không có sắc sở tạo

Lửa thiêu hoại sắc tướng

Nước đắm chìm mọi vật

Gió thổi phăng mọi sự

Làm sao sinh các sắc

Sắc uẩnthức uẩn

Chỉ có hai không năm

Ngoài ra chỉ tên khác

Ta nói là cừu oán

Tâm, tâm sở (cittacaitta) sai biệt

Mà khởi ra hiện pháp

Phân tích các sắc tướng

Chỉ tâm, không vật tạo

Xanh trắng đối đãi nhau

Tác sở tác cũng thế

Sở sinh và Tính Không

Lạnh nóng, tướng sở tướng

Cùng hết thảy hữu vô...

Tưởng tượng, không có thật

Tâm ý và sáu thức

Cùng tương ưng lẫn nhau

Đều nương tạng thức sinh

Không một cũng không khác

Số, tháng và Lộ hình

Những kẻ chấp Tự Tại

(Tàrkika, Isvarodita)

Đều sa vào hữu vô

Xa lìa nghĩa tịch diệt

Đại chủng sinh hình (samthàna) tướng (àkriti)

Không sinh ra đại chủng

Ngoại đạo nói đại chủng

Sinh đại chủng và sắc

Ngoài các pháp vô sinh

Ngoại đạo chấp tác giả

Theo nơi tôn hữu, vô

Kẻ ngu không biết rõ

Tướng thanh tịnh chân thật

Cùng ở với đại trí

Chỉ cùng tâm tương ưng

Không hòa hiệp với ý, (v.v..)

Nếu nghiệp đều sinh sắc

Tất trái nhân các uẩn

Chúng sinh đừng nên chấp

Vô hữu trú vô sắc

Nói sắc mà không có

Thì chúng sinh cũng không

Luận vô sắc là đoạn

Các thức cũng không sinh

Thức nương bốn chỗ trú

Nói vô sắc sao được?

Nội ngoại đã không thành

Nên thức cũng không khởi

Nếu thức chúng sinh (là) không

Tự nhiên được giải thoát

Ấy là luận ngoại đạo

Kẻ vọng kế không biết

Hoặc có kẻ chấp trước

Các uẩn có trung gian

Như sinh cõi vô sắc

Vô sắc làm gì có

Sắc ở trong vô sắc

Tức không thể thấy được

Vô sắc tức trái tôn

Không xe, người đi xe (thừa, thừa giả)

Thức do tập khí sinh

Cùng các căn hòa hiệp

Tám thức trong sát na

Đều không thể nắm giữ

Nếu các sắc không khởi

Các căn không phải căn

Cho nên Thế Tôn nói

Căn, sắc, Sát nị ca (Ksanika)

Vì sao không rõ sắc

Mà có thức sinh được?

Vì sao thức không sinh

Mà có thọ sinh tử

Các căn cùng căn cảnh

Thánh giả hiểu nghĩa ấy

Kẻ ngu si vô trí

Vọng chấp thủ danh kia

Không nên chấp đệ lục

Có thủ cùng không thủ

Vì lìa các lỗi lầm

Bậc thánh không định thuyết

Các ngoại đạo vô trí

Sợ hãi nơi đoạn thường

Chấp hữu vi vô vi

Cùng ngã không sai khác

Hoặc chấp ngã là tâm

Hoặc là khác với ý

Tính một có thể giữ

Tính khác cũng như thế

Nếu thủ đã quyết định

Đặt tên tâm, tâm sở

Chấp thủ ấy vì sao

Không giải quyết “tính một”

Có thủ cùng tác nghiệp

Chứng đắc, nên thọ sinh

Như do lửa mà thành

Ý nghĩa giống, không giống

Như khi lửa thiêu đốt

Củi, vật đều cùng cháy

Vọng chấp ngã cũng thế

Vì sao không sở thủ

Dù sinh hay không sinh

Tâm tính thường thanh tịnh

Chỗ lập ngã ngoại đạo

Sao không lấy ví dụ?

Rừng mê hoặc của thức

Vì vọng xa chân pháp

ưa thích ngã luận

Mà tìm cầu bỉ thử

Chỗ của trí nội chứng

Tướng chân ngã thanh tịnh

Đấy tức Như Lai Tạng

Ngoại đạo không biết được

Phân tích các uẩn ra

Năng thủsở thủ

Nếu biết được tướng ấy

Tức sinh trí chân thật

Các kẻ ngoại đạo kia

trong vòng thức tạng

Chấp Mạt Na là ngã

Không phải chỗ Phật nói

Nếu rõ được chỗ này

Giải thoát thấy chân đế

Khiến tu các phiền não

Đoạn trừ liền thanh tịnh

Bản tính thanh tịnh tâm

Chỗ chúng sinh cầu được

Như Lai Tạng vô cấu

Xa lìa biên, vô biên

Bốn thức ở trong uẩn

Như vàng, bạc trong quặng

Gạn lọc thành tươi sạch

Vàng bạc đều hiện rõ

Phật không phải người, uẩn

Chỉ là trí vô lậu

Biết rõ thường tịch tịnh

Là chỗ về của ta

Bản tính thanh tịnh tâm

Tùy phiền não, ý thảy

Cùng với ngã tương ưng

Nguyện Phật vì con nói

Tự tính thanh tịnh tâm

Ý thảy là cái gì

Nghiệp tích tụ của nó

Tạp nhiễm nên thành hai

Ý thảy (v.v..), ngã, phiền não

Làm nhiễm ô tịnh tâm

Ví như nước trong kia

Mà có các cấu bẩn

Như áo được lìa dơ

Cũng như vàng lìa quặng

Áo, vàng đều không hoại

Tâm lìa lỗi cũng thế

Kẻ vô trí tìm cầu

Ống tiêu cùng loa trống

Để tìm các tiếng hay

Ngã trong uẩn cũng thế

Như phụ nữ mang thai

Tuy có, không thể thấy

Ngã chân thật trong uẩn

Vô trí không thấy được

Như tinh túy trong thuốc

Lại như lửa trong cây

Ngã chân thật (kudgala) Trong uẩn

Vô trí không thấy được

Không tính trong các pháp

Cùng với tính vô thường

Ngã chân thật trong uẩn

Vô trí không thấy được

Các địa, tự tại, thông

Quyền, đảnh, thắng, tam muội

Nếu khôngchân ngã

Những thứ ấy đều không

Có người phá hoại nói:

“Nếu có, chỉ ngả ra”

Bậc trí nên đáp rằng:

“Phân biệt ấy là ngã”

Kẻ nói không chân ngã

Báng pháp, chấp hữu

Tỳ kheo nên yết ma

Trục xuất chớ giao thiệp

Thuyết chân ngã bừng thạnh

Như lửa kiếp tận nổi

Thiêu rừng rậm vô ngã

Lìa các lỗi ngoại đạo

Như tô, lạc, thạch mật

Cùng các thứ dầu ăn

Tất cả đều có vị

Kẻ chưa nếm không biết

Ở trong thân các uẩn

Năm món tìm cầu ngã

Kẻ ngu không hiểu được

Trí thấy tức giải thoát

Dụ do minh trí lập

Còn không rõ được tâm

Nghĩa chứa đựng trong đó

Làm sao hiển hiểu rõ

Tướng sai biệt các pháp

Không rõ chỉ một tâm

Kẻ suy lường vọng chấp

Không nhân và không khởi

Bậc định quán nơi tâm

Tâm không thấy được tâm

Kiến do sở kiến sinh

Sở kiến nhân gì khởi

Họ ta Ca chiên diên (kàtyàyana)

Ra khỏi Tịnh Cư Thiên (sùddhàvàsa)

chúng sinh nói pháp

Khiến nhập Niết Bàn thành

Duyên nơi pháp bốn trú

Ta cùng chư Như Lai

Trong ba nghìn quyển kinh

Rộng nói Niết Bàn pháp

Dục giớivô sắc

Không ở đó thành Phật

Cõi trời sắc cứu cánh (Rùpadhàtvakanisttha)

Lìa dục được Bồ Đề

Cảnh giới không chuyển nhân

Nhân chuyển được cảnh giới

Kiếm bén trí bậc tu

Cắt lìa phiền não kia

Vô ngã làm sao có

Các pháp huyễn hữu vi

Kẻ ngu thấy chân như

Sao nói không chân ngã

Pháp đã làm, chưa làm

Đều không nhân mà khởi

Hết thảy đều vô sinh

Kẻ ngu không hiểu được

Pháp năng tác không sinh

Sở tác và các duyên

Cả hai đều không sinh

Làm sao chấp năng tác

Kẻ vọng kế nói có

Nhân trước sau đồng thời

Dụ bình, các đệ tử

Nói các vật sinh khởi

Phật không là hữu vi

Các tướng tốt đầy đủ

công đức Luân Vương

Đó không phải Như Lai

Phật lấy trí làm tướng

Xa lìa các kiến chấp

Lãnh vực tự nội chứng

Đoạn hết thảy lỗi lầm

Điếc mù cùng ngọng câm

Già, trẻ, ôm hờn oán

Nhất là những kẻ ấy

Không có phần phạm hạnh

Tùy hảo ẩn là trời

Tướng ẩn là Luân Vương

Cả hai đều phóng dật

Chỉ hiện nơi người tu

Sau khi Ta chết rồi

Sẽ có Tỳ da sá (Vyàsa)

Kana (Kanàda) Lê sa bà (Rishabha)

Kiếp tỳ la (Kapila) xuất hiện

Một trăm năm sau Ta

Thuyết của Tỳ da sa

Cùng luận Bà đa la (Bhàraka) v.v..

Rồi có Bán trạch sa (Bàndava)

Kiều vi bà (Kaurava), La ma (Ràma)

Lại có Mao cuồng vương (Maurì)

Nan đà (Nanda) và Cúc đa (Gupta)

Đến Miệt lợi xa vương (Mleccha)

Sau đó đao binh khởi

Rồi có thời hắc ám (Kaliyuga)

Thời ấy các thế gian

Không tu hành chính pháp

Qua sau các thời ấy

Thế như bánh xe lăn

Lửa, mặt trời hòa hiệp

Thiêu đốt ở cõi dục

Lại lập các cõi trời

Thế gian lại thành tựu

Các vương cùng bốn họ

Các tiên cùng pháp hóa

Vệ đà cùng tế tự

Sẽ có pháp ấy thịnh

Pháp đàm luận hí tiếu

Trường hànggiải thích

Tôi nghe như vầy v.v..

Mê hoặc nơi thế gian

Các thứ y nhận được

Nếu có thứ chính sắc

Lấy bùn xanh phân trâu

Nhuộm đi cho hủy màu

Hết thảy các y phục

Phải lìa tướng ngoại đạo

Hiện tướng bậc tu hành

Tướng oai nghiêm của Phật

(Y phục phải nghiêm chỉnh)

Cần phải buộc giây lưng

Lọc nước rồi hãy uống

Lần lượtkhất thực

Không đến chỗ phi xứ

Sinh cõi trời thắng diệu

Và sinh trong loài người

Đủ các tướng quý báu

Sinh trời và vua người

Vua có bốn thiên hạ

Pháp giáo trụ lâu đời

Lên cao tột cung trời

Do tham nên thối thất

Thuần thiện (Ktrayuga) cùng ba thời

Hai thời, thời cực ác

Phật khác hiện thời thiện

Thích Ca ra đời ác

Sau khi Ta Niết bàn

Tất Đạt Đa họ Thích

Tỳ nữu (Visnu), Đại tự tại (Mahesvara)

Các ngoại đạo cũng xuất

Như vậy tôi nghe v.v..

Điều Thích sư tử nói

Đàm cổ (puràvttra) cùng tiếu ngữ (Itihàsa)

Tiên tỳ dạ sa nói

Sau khi Ta Niết Bàn

Tỳ nữu, Đại tự tại

Các thuyết kia nói rằng:

Ta làm nên thế gian

Ta tên Phật ly trần (Viraja-jina)

Họ Ca đa diễn na (Kàtyàyana)

Cha tên Thế gian chủ (Prajàpati)

Mẹ hiệu là Cụ tài (Vasumati)

Ta sinh nước Chiêm bà (Campà)

Ông nội trước của Ta

Do dòng mặt trăng sinh (Somavamsa)

Nên hiệu là Nguyệt tạng (Somagupta)

Xuất gia tu khổ hạnh

Diễn nói ngàn pháp môn

Thọ ký cho Đại Huệ

Rồi sau đó diệt độ

Đại Huệ truyền Đạt ma (Dharma)

Đạt ma truyền Di khư lê (Mekhala)

Di khư gặp thời ác

Kiếp tận pháp sẽ diệt

Ca Diếp Câu Lưu Tôn

Câu Na Hàm Mưu Ni

Cùng Ta ly trần cấu

Đều sinh thời thuần thiện

Khi thời thiện dần giảm

đạo sư tên Huệ (Mati)

Thành tựu đại dõng mãnh

Giác ngộ được năm pháp

Không phải nhị, tam thời

Cũng không thời cực ác

Chỉ trong thời thuần thiện

Mới hiện Đẳng Chính Giác

Áo tuy không rách rưới

Nhưng vải vụn vá thành

Như lỗ đuôi Khổng tước

Không có ai xâm đoạt

Hoặc hai ngón ba ngón

Cách nhau mà may thành

Nếu làm khác như thế

Kẻ ngu sinh tham trước

Chỉ giữ ba chiếc áo

Thường tắt lửa tham dục

Tắm trong nước trí huệ

Ngày đêm ba thời tu

Như phóng tên rất mạnh

Tên rơi phóng tên khác

Lại như hai đầu cân

Thiện bất thiện cũng thế

Nếu một hay sinh nhiều

Tất có tướng dị biệt

Kẻ cho hãy như ruộng

Kẻ nhận hãy như gió

Nếu một hay sinh nhiều

Hết thảy không nhân có

Nhân sở tác bị hoại

Ấy là thuyết vọng kế

Nếu thuyết của vọng kế

Thêm dụ đèn, hạt giống

Một mà sinh ra nhiều

Chỉ tương tợ, không nhiều

Mè thì không sinh đậu

Đậu nhỏ không (phải) giống lúa

Sao nói một sinh nhiều

Danh thủ (pànini) tạo Thanh luận (Sabhanatri)

Quảng chủ tạo Vương luận

Vọng thuyết theo thế luận

Sẽ sinh trong Phạm tạng

Ca đa diên (Kàtyàyana) tạo kinh

(Tiên) Thọ bì (Yajnàvalka)

Câu lưu (Bhudhuka) tạo thiên văn

Thời ác thế sẽ có

Chúng sinh các thế gian

Nhờ phước được làm ma

Đúng pháp cai trị thế

Giữ gìn cho cõi nước

Thanh nghị (Vàlurìka) cùng Xích đậu (Masuràksha)

Trắc tích (Kautilya) và Mã hành (Asvalayana)

Những đại phúc tiên ấy

Sẽ xuất hiện đời sau

Tất Đạt Đa dòng Thích

Bộ đa (Bhùtànta), ngũ Kế giả (Pancacudaka)

Ngũ lực (Vàgbali) cùng Thông huệ (Medhàvin)

Cũng ra đời về sau

Ta ở nơi rừng hoang

Phạm vương đến cho Ta

Trần bì (Ajina), Tam kỳ trượng (dandakàsthà)

Bác điều (Mekhalà) cùng quân trì (Cakramandala)

Bậc đại tu hành này

Sẽ thành đấng ly cấu

Nói pháp chân giải thoát

Tướng của các Mâu Ni

Phạm vương cùng phạm chúng

Các trời cùng chúng trời

Cho Ta áo da nai

Trở về cùng tự tại

Ta ở trong rừng cây

Tứ thiên vương đế thích

Cho Ta y phục đẹp

Cùng với bát khất thực

Nếu lập luận bất sinh

Nhân ấy sinh rồi sinh

Lập vô sinh như thế

Chỉ là thuyết hư huyễn

Do vô thỉ tích tập

Vô minh nhân của tâm

Sinh diệt nối tiếp nhau

Phân biệt của vọng kế

Tăng khu luận có hai

Thắng tính cùng biến dị

Trong thắng có sở tác

Sở tác phải tự thành

Thắng tính cùng với vật

Câu na nói sai biệt

Các món tác sở tác

Biến dị đều không được

Như thủy ngân trong sạch

Bụi bẩn không thể nhiễm

Tạng thức sạch cũng thế

Nơi chúng sinh y chỉ

Như các thứ rau hôi

Vị muối và thai tạng

Chủng tử cũng như thế

Tại sao mà không sinh

Tính nhất và tính dị

Câu bất câu cũng thế

Không sở thủ mà có

Không vô vi, hữu vi

Trong ngựa không tính trâu

Ngã trong uẩn cũng thế

Chỗ nói vi, vô vi

Đều không có tự tính

Trong giáo lý tìm ngã

ác kiến vọng cầu

Không hiểu nên nói có

Chỉ vọng thủ, không ngoài

Ngã ở trong các uẩn

Một, khác đều không thành

Lỗi lầm kia rõ rệt

Kẻ vọng kế không biết

Như gương nước và mắt

Hiện ra các thứ hình

Xa lìa tính một, khác

Ngã trong uẩn cũng vậy

Hành giả tu chính định

Kiến (darsana), đế (satya) cùng với đạo (màrga)

Siêng tu ba thứ ấy

Giải thoát các ác kiến

Như ở trong khe cửa

Thấy ánh chớp qua mau

Pháp thiên biến cũng thế

Không nên khởi phân biệt

Phàm phu tâm mê hoặc

Chấp Niết Bàn có, không

Nếu có được thánh kiến

Như thật mà hiểu được

Nên biết pháp biến dị

Xa lìa nơi sinh diệt

Lại tìm nơi hữu vô

Cùng với tướng năng sở

Nên biết pháp biến dị

Xa lìa luận ngoại đạo

Lại lìa nơi danh, tướng

Diệt ngã kiến bên trong

Thân sung sướng cõi trời

Thân bị khổ địa ngục

Nếu khôngtrung hữu

Các thức không thể sinh

Nên biết trong các đường

Các loại thân chúng sinh

Loài sinh từ thai, trứng v.v..

Đều do trung hữu sinh

Lìa thánh giáo chính lý

Diệt dục hoặc càng tăng

Là cuồng thuyết ngoại đạo

Kẻ trí không nên nói

Trước nên rõ biết ngã

Và các thủ phân biệt

Không biết rõ phân biệt

Như con người Thạch nữ

Ta lìa xa nhục nhãn

Dùng huệ nhãn thiên nhãn

Thấy các thân chúng sinh

Lìa các hành các uẩn

Quán thấy trong các hành

Có sắc tốt sắc xấu

Giải thoát, không giải thoát

Có kẻ ở cõi trời

Kẻ thọ nhân các cõi

Chỉ mình Ta biết được

Vượt chỗ thế gian biết

Không phải cảnh suy lường

Vô ngã mà tâm sinh

Tâm ấy làm sao sinh

Há không nói tâm sinh

Như sông, đèn, hạt giống?

Nếu không vô minh v.v..

Tâm thức tất không sinh

Lìa vô minh không thức

Làm sao sinh tương tục

Thuyết của kẻ vọng chấp

Ba đờiphi thế

Thứ năm không thể nói

Chỗ các đức Phật biết

Các hành, thủ, sở thủ

Đều là nhân trí tuệ

Không nên nói trí tuệ

Gọi tên là các hành

Vì có nhân duyên ấy

Tất có pháp này sinh

Không riêng có tác giả

Đấy là pháp Ta nói

Gió không thể sinh lửa

Nhưng khiến lửa bùng dậy

Lại do gió lửa tắt

Làm sao dụ cho ngã?

Chỗ nói vi, vô vi

Đều lìa nơi các thủ

Sao kẻ ngu phân biệt

Lấy lửa mà lập ngã

Sức các duyên xoay vần

Cho nên sinh ra lửa

Nếu phân biệt như lửa

Ngã ấy do ai sinh

Vì ý thảy làm nhân

Các uẩn, xứ tích tụ

Ông thương chủ vô ngã

Thường với tâm cùng khởi

Cả hai như mặt trời

Xa lìa năng, sở tác

Lửa không thể thành lập

Kẻ vọng kế không biết

Chúng sinh, tâm, Niết Bàn

Bản tính thường thanh tịnh

Nhiễm thói lỗi vô thỉ

Không khác như hư không

Các ngoại đạo tượng ngọa (Hastisayya)?

Bị các kiến tạp nhiễm

Ý thức làm che khuất

Chấp lửa là thanh tịnh

Nếu được như thật kiến

Sẽ đoạn được phiền não

Xả rừng rậm tà dụ (Drstàntagahana)

Đến lãnh vực của Thánh

Phân biệt thành khác nhau

Giữa trí cùng sở tri

Kẻ ngu vì không biết

Nói chỗ không nên nói

Như ngu lấy gỗ khác

Làm chiên đàn (candanàgaru), trầm thủy

Vọng chấp cùng chân trí

Nên biết cũng như vậy

Ăn xong cầm bát về

Tẩy rửa cho sạch sẽ

Súc miệng sạch các vị

Nên tu hành như thế

Nếu nơi pháp môn này

Suy nghĩ đúng như lý

Tịnh tín lìa phân biệt

Thành tựu định tối thắng

Lìa chấp, ở nơi nghĩa

Thành kim cang pháp đăng

Phân biệt nơi hữu vô

Cùng các lưới ác kiến

Ba độc thảy đều lìa

Được tay Phật quán đảnh

Ngoại đạo chấp năng tác

phương hướng không nhân

Sợ hãi thuyết duyên khởi

Đoạn diệt, không thánh tính

Các quả báo biến khởi

Là các thức cùng ý

Ý từ tạng thức sinh

Thức nương Mạt Na khởi

Tạng thức khởi các tâm

Như biển khơi sóng lớn

Do tập khí làm nhân

Tùy duyênsinh khởi

Sát na tướng nối nhau

Chấp cảnh giới tự tâm

Các món hình cùng tướng

Ý căn và thức sinh

Do ác tập vô thỉ

Mà sinh tợ ngoại cảnh

Chỗ thấy chỉ là tâm

Ngoại đạo không hiểu được

Nhân kia và duyên kia

Mà sinh ra các thức

Cho nên khởi các kiến

Trôi lăn trong sinh tử

Các pháp như huyễn mộng

Trăng đáy nước, Càn thành

Nên biết hết thảy pháp

Chỉ là tự phân biệt

Chính trí nương chân như

Mà khởi các tam muội

Thủ Lăng Nghiêm như huyễn

Các tam muội như thế

Được nhập vào các địa

Tự tạithần thông

Thành tựu trí như huyễn

Được các Phật rưới đầu

Thấy thế gian hư dối

Khi ấy tâm chuyển ý

Được vào Hoan hỉ Địa (Muditàbhùmi)

Các địa cùng Phật địa

Đã được chuyển y rồi

Như ma ni nhiều mầu

Lợi ích cho chúng sinh

Tùy hiện như trăng nước

Xa lìa kiến hữu, vô

Cùng với câu, bất câu

Siêu việt hạnh nhị thừa

Lại siêu đệ thất địa

Pháp hiện chứng bên trong

Từng bậc mà tu tập

Xa lìa các ngoại đạo

Nên nói là đại thừa

Nói pháp môn giải thoát

Như sừng thỏ, ma ni

Xả ly các phân biệt

Lìa chết cùng biến dịch

Giáo do lý mà thành

Lý nhờ giáo mà rõ

Nên y giáo, lý này

Chớ lại thêm phân biệt.

 

HẾT
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 43167)
Đây là một bản kinh Phật đặc sắc, nêu bật lên ý nghĩa nhân quả bằng những truyện tích nhân duyên rất sống động, được thuật lại với nhiều chi tiết thú vị.
(Xem: 43955)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 43039)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366, Đoàn Trung Còn và Nguyễn Minh Tiến dịch
(Xem: 49029)
Có một lúc, đức Phật ở trong núi Kỳ-xà-quật gần thành Vương Xá, cùng với các vị đại tỳ-kheo mười hai ngàn người, đại Bồ Tát là tám mươi ngàn người.
(Xem: 39861)
Bấy giờ, đức Thế Tôn ở giữa đại chúng, vì đại chúngthuyết giảng giáo pháp nhiệm mầu, trừ sạch bốn điên đảo, khiến cho được rõ biết các pháp lành...
(Xem: 53801)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, lúc mới Chuyển pháp luân độ ông A-nhã Kiều-trần-như, đến khi thuyết pháp lần cuối cùng độ ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 36833)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng. Nếu thấy các tướng thật chẳng phải tướng tức là thấy Như Lai.
(Xem: 40828)
Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: "Về phương đông, cách đây vô số cõi Phật nhiều như số cát sông Hằng, có một thế giới tên là Tịnh Lưu Ly.
(Xem: 49743)
Lúc ấy, Bồ Tát Vô Tận Ý từ chỗ ngồi đứng dậy, vén tay áo bên vai mặt, quỳ xuống chắp tay cung kính bạch Phật rằng...
(Xem: 47331)
Thế Tôn thành đạo dĩ, tác thị tư duy: “Ly dục tịch tĩnh, thị tối vi thắng.” Trụ đại thiền định, hàng chư ma đạo. Ư Lộc dã uyển trung...
(Xem: 27746)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 25860)
Quyển Kinh Lời Vàng này nguyên danh là "Phật Giáo Thánh Kinh" do nữ Phật tử Dương Tú Hạc biên trước bằng Hán Văn (người Trung Hoa).
(Xem: 29897)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27180)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 24765)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 21320)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23231)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 23886)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22814)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 29583)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20646)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 34168)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 24685)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30047)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20227)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20408)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15145)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 23903)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
(Xem: 34082)
Tiểu Bộ Kinh - Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
(Xem: 24006)
Quy mạng Lô Xá Na, Mười phương Kim Cương Phật. Ðảnh lễ đức Di Lạc, Sẽ hạ sanh thành Phật. Nay tụng ba tựu giới, Bồ Tát đều cùng nghe.
(Xem: 29200)
Tôi nghe như vầy: Một thời Thế-tôn, châu du giáo hóa các nước đến thành Quảng-nghiêm, ở nghỉ dưới cây Nhạc-âm, cùng với tám ngàn vị đại tỳ-kheo...
(Xem: 60166)
Bồ TátVô Tận Ý Khi bấy giờ chăm chỉ đứng lên Bèn trịch vai hữu một bên Chắp tay cung kính hướng lên Phật đài
(Xem: 27623)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 68751)
Chúng sanh đây có bấy nhiêu Lắng tai nghe lấy những điều dạy răn Các ngươi trước lòng trần tục lắm Nên kiếp nầy chìm đắm sông mê
(Xem: 24540)
Một thuở nọ Thế Tôn an trụ Xá Vệ thành Kỳ Thụ viên trung Mục Liên mới đặng lục thông Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm luân.
(Xem: 26376)
Lăng-già (Lanka) là tên núi, núi này do sản xuất châu Lăng-già nên lấy tên châu mà gọi tên núi. Núi nằm tại biển Nam là chỗ ở của Dạ-xoa.
(Xem: 20826)
Lư hương xạ nhiệt, Pháp-giới mông huân. Chư Phật hải hội tất diêu văn, Tùy xứ kiết tường vân
(Xem: 20067)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phảng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 27556)
Làm người Phật tử ở đời Đêm ngày tụng niệm những lời dạy khuyên Tám điều giác ngộ kinh truyền Ghi lòng tạc dạ tinh chuyên tu hành
(Xem: 46444)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 25585)
Phụng dịch theo bản đời Đường của Ngài Thiệt Xoa Nan Đà. Tham khảo các bản dịch đời Ngụy, Tống và bản dịch Anh Ngữ của Suzuki. - Dịch Giả: Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 29273)
VIMALAKĪRTINIRDEŚA - SŪTRA - Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết - Đường Huyền Trang dịch - bản dịch Việt: Tuệ Sỹ
(Xem: 189009)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi tam-bảo
(Xem: 27434)
Thắng Man Phu nhân điển hình cho phụ nữ thực hành Bồ tát đạo bằng cung cách trang nhã, từ ái, khiêm cung. Môi trường thực hành bao gồm từ giới hạn thân thuộc...
(Xem: 31140)
Kinh Pháp Cú (Kinh Lời Vàng), The Path of Truth - Việt dịch: Hòa Thượng Thích Minh Châu - Họa sĩ: Mr. P. Wickramanayaka (vẽ theo bản tiếng Anh mà HT Thích Minh Châu dịch) - Vi tính: Tâm Tịnh
(Xem: 33176)
Tích truyện Pháp Cú - Thiền viện Viên Chiếu - Nguyên tác: "Buddhist Legends", Eugène Watson Burlingame
(Xem: 24035)
Sau 45 năm thuyết pháp, những lời giảng daỵ của Đức Phật không những không bị quên lãng, thất lạc mà còn được lưu giữ, truyền bá mãi đến ngày nay...
(Xem: 25631)
Ta Bà là chốn tạm ở thôi Cửa không mau phải hồi đầu lại Hai sáu nguyện vương tiêu tai chướng Ba ngàn hoá Phật chứng lòng thành
(Xem: 26709)
Cuộc đối thoại đầy đạo vị hứng thú dĩ nhiên được truyền tụng khắp nơi trong giới Phật giáo cũng như ngoài nhân gian. Về sau, vào thế kỷ đầu sau Tây lịch, sợ để khẩu truyền lâu ngày
(Xem: 36672)
Ở phương Ðông cách đây hơn mười căn dà sa cõi Phậtmột thế giới tên là Tịnh Lưu Ly. Ðức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai
(Xem: 27352)
Lúc Đức Phật Thích-ca chứng đắc, Chuyển bánh xe chánh pháp độ sanh, Kiều-trần-như được duyên lành, Năm anh em họ viên thành lý chân,
(Xem: 30374)
Phật Thùy Ban Niết Bàn Lược Thuyết Giáo Giới Kinh (Kinh Di Giáo) - Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0389 - Cưu Ma La Thập dịch Hán; HT. Thích Trí Quang dịch Việt
(Xem: 37325)
Một thời Ðức Phật ở nước Xá Vệ, trong vườn Cấp Cô Ðộc, cây của thái tử Kỳ Ðà, cùng với các đại Tỳ Kheo Tăng... Thích Minh Định dịch
(Xem: 23908)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Kỳ Thọ Cấp Cô Độc gần thành Xá Vệ, với đại chúng khất sĩ gồm một ngàn hai trăm năm mươi vị. Hôm ấy vào giờ khất thực, Bụt mặc áo và ôm bát đi vào thành Xá Vệ.
(Xem: 36981)
Khuyến phát Bồ Đề Tâm văn; Âm Hán Việt: Cổ Hàng Phạm Thiên Tự Sa môn Thật Hiền soạn; Dịch: Sa môn Thật Hiền chùa Phạm Thiên Cổ Hàng soạn
(Xem: 27622)
Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm Kinh - Năm trăm Danh Hiệu Phật và Bồ Tát Quán Thế Âm
(Xem: 28341)
Công Phu Khuya
(Xem: 24165)
Nói một cách vắn tắt, sự xuất hiện của Duy-ma-cật là xu hướng khẳng định vai trò tích cực của chúng đệ tử tại gia trong giáo pháp của Phật, về các mặt hành đạo cũng như hóa đạo.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant