Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

17. Phẩm Thứ Mười Bảy: Phân biệt công đức

22 Tháng Năm 201100:00(Xem: 11236)
17. Phẩm Thứ Mười Bảy: Phân biệt công đức

SEN NỞ TRỜI PHƯƠNG NGOẠI
Thầy Nhất Hạnh giảng kinh Pháp Hoa
Nhà xuất bản Lá Bối 2001

Phần II: Kiến giải Pháp Hoa Kinh

Phẩm Thứ Mười Bảy: Phân biệt công đức

Hôm nay chúng ta học phẩm thứ 17 tức là Phẩm Phân biệt công đứcCông đức là tiếng ghép của công-phu và đức-hạnh. Đây là một loại năng lượng mà khi hành trì thì ta thâu thập được. Năng lượng này giữ gìn cho ta, làm cho ta có trí tuệ, có hạnh phúc, có cái nhìn sáng, có cái nghe rõ, và có sự có mặt rất sâu sắc. Công đức tiếng Phạn là PuẾya, tiếng Pháp là Mérites.

Phẩm này cho chúng ta thấy được những lợi ích, và những công đức của sự thọ trì Pháp Hoa. Thọ là tiếp nhận, trì là thực tập, hành trì. Trong phẩm này chúng ta được học rằng nếu người nào có cơ hội được nghe Pháp Hoa, và trong khi nghe Pháp Hoa mà trong lòng phát khởi một niềm vui, một niềm hoan hỷ, một niềm tin yêu thì dầu cho điều này chỉ xảy ra trong một niệm thôi, thì công đức cũng là vô lượng. Đó là một hạt giống rất tốt, và chính nhờ hạt giống tốt đó mà ta thành tựu được cái công trình vĩ đại sau này.

Trong phẩm trước chúng ta đã học về thọ mạng của Như LaiThọ mạng tức là cái chiều dài của cuộc sống. Chúng ta đã thấy rằng Như Lai có mặt trong thời gian vô cùng và trong không gian vô biên. Nghĩa là nhìn vào đức Thích Ca Mâu Ni, ban đầu chúng ta chỉ thấy được một hóa thân thôi, chỉ thấy được Bụt trong thế giới sinh diệt, trong khung cảnh Tích môn. Nhưng nếu tiếp tục nhìn cho sâu sắc, ta có thể phát khởi được Bụt của thời gian vô cùngkhông gian vô tận, và chúng ta tiếp xúc được với Bụt của Bản môn. Nếu người nào nghe được, hiểu được, tin được điều đó, thì coi như người đó đã ngồi dưới cội bồ đề, sắp sửa thành Bụt, không xa mấy nữa. Thấy được điều đó, ngộ được điều đó, hiểu được điều đó, tin được điều đó, tức là gần với quả vị Bụt lắm rồi, đã sắp bắt ấn địa xúc rồi.

Khi đó đức Thế Tôn bảo Bồ Tát Di Lặc rằng: A-dật-đa, trong khi tôi nói với quí vị về cái thọ mệnh của Như Lai, thì có hằng hà sa chúng sanh đạt tới cái pháp nhẫn gọi là vô sanh (Vô sinh pháp nhẫn). Bụt nói trong thế giới của Tích môn, đồng thời cũng nói trong thế giới của Bản môn. Trong hai thế giới đó, số người nghe Bụt là vô lượng, vô biên, và Bụt luôn luôn ám chỉ điều đó trong bất cứ giây phút nào. Vì vậy mà số người đang nghe và đang chứng được Vô sinh pháp nhẫnvô lượng vô số na-do-tha hằng-hà-sa. Hằng hà sa tức là số cát ở sông Hằng; Na-do-tha Hằng hàvô số sông Hằng. Mỗi sông hằng có bao nhiêu là cát, vậy mà ở đây kinh nói có na-do-tha sông Hằng, và không phải chỉ có một na-do-tha, có đến sáu trăm tám muôn ức na-do-tha sông Hằng! Số cát trong tất cả các sông Hằng đó, là tượng trưng cho số chúng sanh đã đạt tới Vô sanh pháp nhẫn khi họ nghe nói về thọ mạng, về cái tính cách bất sinh bất diệt của Bụt. Vô sinh có nghĩa là không sanh ra, Tôi chưa bao giờ từng sanh mà cũng chưa bao giờ từng diệt. Bụt là như vậy và mình cũng như vậy. 
Người có tâm niệm hẹp hòi thì không chứa đựng nổi sự thật đó, không tin được điều đó. Cũng như một trái bong bóng chỉ có thể chứa đựng được một ít không khí thôi, nếu bơm vào nhiều quá thì nó sẽ nổ. Những con người có ít đức tin, có cái thấy nông cạn, bèo bọt, thì không có khả năng tiếp nhận những chân lý lớn. Cái khả năng tiếp nhận chân lý lớn gọi là Nhẫn, Pháp nhẫnHạnh phúc cũng vậy, hạnh phúc lớn cũng cần phải có một pháp nhẫn vĩ đại mới có thể chứa đựng được. Chúng ta là những người có tâm lượng chưa lớn gì mấy, chưa đủ mạnh, vì vậy chúng ta chịu đựng hạnh phúc lớn chưa được, chúng ta chỉ chịu đựng được những hạnh phúc nho nhỏ thôi. Nếu nhận một hạnh phúc lớn hơn sức chịu đựng của chúng ta, thì chúng ta sẽ bùng nổ. Nhiều người nghe tin trúng số độc đắc, họ té xỉu, đứng tim luôn, là vì họ không đủ sức chịu đựng được cái tin vui quá lớn lao đối với họ như vậy. Đau khổ cũng vậy, có những trường hợp người ta không dám cho bà mẹ biết tin con bà tử nạn, vì bà sẽ không chịu nổi cái đau khổ đó. Tất cả là vì không có cái nhẫn.

Vô sinh cũng là một tin mừng rất lớn. Chúng ta cứ in trí rằng mình có sanh có diệt, có còn có mất, có tới có lui. Chúng ta đã yên chí như vậy từ lâu rồi, bây giờ có người mở kho tàng sự thật ra, và cho chúng ta biết một sự thật vô giáchúng ta chưa bao giờ sanh, mà cũng chẳng bao giờ diệt, thì chúng ta có thể chịu đựng được cái sự thật đó hay không? Những người nghe Bụt nói tới cái thực tại vô sanh vô diệtchịu đựng được, mỉm cười được, tin tưởng được, là những người đã đạt được một quả vị gọi là Vô sanh pháp nhẫn. Có kinh nói rằng Ma-da phu nhân sau khi sanh thái tử rồi thì hạnh phúc lớn lao quá, khiến Bà không chịu đựng nổi, nên Bà phải sinh lên cõi trời. Lại cũng có hàng nghìn, hàng vạn, hàng triệu các vị Bồ Tát nhiều bằng bao nhiêu muôn ức na-do-tha Hằng hà sa, khi được nghe sự thực về vô sinh, về thọ mạng của Thế tôn thì đạt được cái Đà-la-ni gọi là Văn trì đà-la-ni. Văn có nghĩa là nghe; trì có nghĩa là giữ gìn, đừng cho mất đi, nhớ được; đà-la-ni là tổng trì, tức là duy trì được. Vậy thì Văn trì đà-la-ni là cái khả năng duy trì được, giữ gìn được, bảo vệ được, thực tập được, chia xẻ được những điều mình đã nghe và đã hiểu. Lại có vô số các vị đại Bồ Tát khác đã đạt được cái gọi là Nhạo thuyết vô ngại biện tàiBiện tài tức là cái khả năng diễn tả để có thể chinh phục người khác, tiếng Anh là Eloquence; vô ngại tức là không có cái chướng ngại nào cả.

Như vậy phẩm Phân biệt Công đức này chứa đựng một sự thật, mà khi sự thật đó được trình bày ra, thì có rất nhiều Bồ Tát đã đạt được cái hoa trái của sự tu học, đã đạt được Vô sinh pháp nhẫn, Văn trì đà la ni, và Nhạo thuyết vô ngại biện tài (trang 397).

Trang 407, đoạn chót: Này Bồ Tát Di Lặc, nếu người thiện nam tử hay thiện nữ nhân nào khi nghe tôi nói về thọ mệnh dài lâu của Như Lai mà sinh ra lòng tin và hiểu, thì người đó là người đang ngồi trên núi Thứu này, đang ngồi bên cạnh tôi trong giờ phút hiện tại này. Đó là công đức của sự thọ trì Pháp Hoa. Nếu được nghe Pháp Hoa từ một người bạn, qua một vị thầy, từ một con chim hót hay tiếng suối reo, hoặc đọc một cuốn kinh mà hiểu và tin được, thấy được, nhận thức được cái tính cách vô sinh, vô diệt của vạn hữu, của Như Lai, thì người đó là người đang ngồi bên cạnh Bụt trên núi Thứu. Vì vậy ta đừng nói rằng và đừng nghĩ rằng ngồi được bên cạnh Bụt trên núi Thứu là chuyện mơ tưởng xa vời, phải lùi lại 2500 năm mới có thể làm được. Chúng tathể đạt được hạnh phúc đó ngay trong giây phút hiện tại.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12825)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12747)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11802)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11783)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12399)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12448)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19894)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 12028)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 12051)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16947)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12727)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 15130)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 16194)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12946)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12296)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11972)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11975)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13217)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16563)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13278)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12568)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11905)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19918)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11210)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11319)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10455)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11151)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 11016)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 10072)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11791)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
(Xem: 11687)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 12007)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11148)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11391)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12110)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12599)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10820)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 18041)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11758)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9993)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 11280)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 13215)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 16627)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 11912)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10956)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 11894)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 28864)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12415)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 53160)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35557)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 16117)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 12244)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12377)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 11429)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17249)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 15034)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 14656)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13918)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11774)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15106)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant