Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phật nói Đại oai đức Kim Luân Phật đảnh Xí Thạnh Quang Như Lai Tiêu trừ nhất thiết tai nạn đà-ra-ni kinh

28 Tháng Mười 201100:00(Xem: 39794)
Phật nói Đại oai đức Kim Luân Phật đảnh Xí Thạnh Quang Như Lai Tiêu trừ nhất thiết tai nạn đà-ra-ni kinh

PHẬT NÓI ĐẠI OAI ĐỨC KIM LUÂN PHẬT ĐẢNH

Xí Thạnh Quang Như Lai Tiêu trừ nhất thiết
tai nạn đà-ra-ni kinh 
Thích Giác Viên dịch từ Hán văn ra Việt văn

Lúc bấy giờ đức Thích-ca Mâu-ni ở cung trời Tịnh Cư dạy ngài Văn-thù-sư-lợi đại Bồ-tát và tứ chúng, bát bộ Du không đại thiên, Cửu chấp thất diệu, mười hai cung thần, hai mươi tám vì tinh tú, nhật nguyệt:

“Thời quá khứ ta ở chỗ Ta-la Thọ Vương Phật, thọ Pháp Đại oai đức Kim luân

Phật Đảnh Xí Thạnh Quang Như Lai Tiêu trừ Nhất thiết tai nạn đà-ra-ni. Đối với đời vị lai, nếu có cõi nước nào, nhật, nguyệt, ngũ tinh, La Hầu, Kế Đô, sao chổi, sao phướng, các yêu quái, ác tinh chiếu đến bổn mạng cùng quyến thuộc cung thần, hw các vì tinh tú chiếu đến ngôi quốc chủ ở trong nước, trong nhà, nơi thôn làng, lúc bị bức ép, tiến vào làm các tai nạn, nên ở chỗ thanh tịnh an trí đạo tràng chí tâm thọ đà-ra-ni 108 biến hoặc 1.080 biến hoặc một ngày, hai ngày cho đến bảy ngày. Y pháp tu trì, đối đàng tràng đọc tụng, tất cả tai nạn tự nhiên tiêu diệt không thể làm hại được, nếu Thái Bạch, Hỏa Tinh hoặc Nam Đẩu, ở trong nước, trong nhà và nơi thôn làng khởi lên các tai nạn, nên ở trước tôn tượng Phẫn nộ, họa bức tượng kia chiêm thấy hình sắc rõ ràng, niệm chân ngôn này gia trì, thì tai nạn liền tiêu dứt, tinh sao chẳng bội nghịch, quốc chủ lâu bền, nhân dân an lạc.

Liền nói đà-ra-ni rằng:

Nẵng mồ tam mãn đà một đà nẫm, a bát ra để hạ đa xá tát nẵng nẫm. Đát điệt tha.
Án khư khư khư hế khư hế, Hồng Hồng nhập phạ la phập phạ la, bát ra nhập
phạ la bát ra nhập phạ la, để sắc xá để sắc xá, sắc trí rị sắc trí lị, tát phát tra tát
phát tra, phiến để ca thất lị duệ sa ha.”

Phật dạy: “Nếu cõi nước hay thôn xóm nào hoặc có kẻ nam người nữ bị các thiên tinh chiếu đến thân mình, chỉ nên viết chép kinh này chí tâm thọ trì đọc tụng, thì thường được hộ trì thanh tịnh. Vì đà-ra-ni này tất cả Như Lai đồng cộng tuyên nói, không chỉ thành tựu tám vạn món đại kiết tường, mà còn tiêu trừ tám vạn món đại bất kiết tường. Nếu có quốc chủ, đại thần, các quyến thuộc và tất cả thứ dân bị Ngũ tinh, La Hầu, Kế Đô, sao chổi sao phướng, yêu quái các ác tinh chiếu đến bức ép ngôi quốc chủ trong nước, trong nhà, nơi thôn xóm quyến thuộc cung tú, tai nạn đột khởi, hoặc Thổ tinh xâm lăng hoặc tiến hoặc thoái và oan gia trong nhà mưu tâm ác hại, các việc ngang trái, khẩu thiệt, trù rủa chú ếm thư phù, cho đến làm các tai nạn, thì các chúng sanh nên y Pháp thọ trì, tất cả tai họa không thể xảy đến, biến tai thành phước, đều được kiết tường an lạc. Ta nói công đức của chân ngôn này không thể nghĩ bàn, không thể so sánh, bí mật thọ trì, chớ vọng tuyên truyền.”

Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng, an trí tượng Phật, kiết giới hộ trì, hương hoa, đèn sáng, tùy phần cúng dường, khiến cho các chúng sanh được phước vô lượng, tai nạn đều dứt”.

Lúc bấy giờ đức Như Lai bảo đại chúng: “Nếu hàng năm có kẻ bị ngũ tinh, Kim, Mộc, Thuỷ, Hỏa, Thổ và La Hầu, Kế Đô, nhật, nguyệt, các tinh tú chiếu thân, tai nạn đột khởi, ta có Đại kiết tường thần chú gọi là Phá tú diệu. Nếu có thể chí tâm thọ trì nhớ niệm, thì nạn tự tiêu, chuyển họa thành phước”.

Liền nói chân ngôn rằng:

Úm tát phạ nặc sát tô ra tam ma duệ thất lị duệ phiến để ca câu lô tát bà ha.”

Lúc bấy giờ đức Như Lai nói Kinh này rồi, ngài Văn-thù-sư-lợi đại Bồ-tát và bốn chúng,

Du không đại thiên, các Tinh thần, tất cả Thánh chúng, toàn thể nương lời Phật dạy, đảnh lễ phụng trì lui về bổn cung. Hết thảy Thiên long bát bộ nghe Phật thuyết pháp đều đại hoan hỉ tín thọ phụng hành.

 

PHẬT NÓI ĐẠI OAI ĐỨC KIM LUÂN PHẬT ĐẢNH XÍ THẠNH QUANG NHƯ LAI

TIÊU TRỪ NHẤT THIẾT TAI NẠN ĐÀ LA NI KINH

(hết)

 

Phật nói Xí thạnh quang tiêu tai kinh Cửu diệu chân ngôn

Kim tinh:

“Nẵng mồ tam mãn đà một đà nẫm. Úm ma hạ hàm vĩ dã ta phạ hạ”

Mộc tinh:

“Nẵng mồ tam mãn đà một đà nẫm. Úm ấn nại ra dã ta phạ hạ”

Thủy tinh:

“Nẵng mồ tam mãn đà một đà nẫm. Úm phạ rô noa dã ta phạ hạ”

Hỏa tinh:

“Nẵng mồ tam mãn đà một đà nẫm. Úm a ngật nẵng duệ ta phạ hạ”

Thổ tinh:

“Nẵng mồ tam mãn đà một đà nẫm. Úm bát ra thế duệ ta phạ hạ”

La Hầu tinh:

“Nẵng mồ tam mãn đà một đà nẫm. Úm la hộ nẵng a tố ra, ra nhạ dã hồng ta phạ hạ”

Kế Đô tinh:

“Nẵng mồ tam mãn đà một đà nẫm. Úm phạ nhựt ra kế đô nặc khất sát đát ra ra nhạ dã hồng ta phạ hạ”

Nhật thiên tinh:

“Nẵng mồ tam mãn đà một đà nẫm. Úm la nễ để dã ta phạ hạ”

 Nguyệt thiên tinh:

“Nẵng mồ tam mãn đà một đà nẫm. Úm tô ma dã ta phạ hạ”

(Thích Giác Viên dịch xong năm 1979, tại Thiền Tịnh tự)

 

Nguyễn Minh Hoàng và Nguyễn thị Diệu Minh nhập liệu từ bản quay ronéo, lưu hành nội bộ.

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12842)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12768)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11813)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11806)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12420)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12467)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19925)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 12056)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 12087)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16976)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12754)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 15170)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 16225)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12966)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12323)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11995)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 12004)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13238)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16593)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13307)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12594)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11918)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19952)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11257)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11351)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10487)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11166)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 11033)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 10106)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11818)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
(Xem: 11710)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 12034)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11180)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11425)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12134)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12632)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10842)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 18080)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11799)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 10025)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 11307)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 13257)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 16663)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 11946)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 11002)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 11933)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 28893)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12439)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 53210)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35589)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 16157)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 12260)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12408)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 11483)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17293)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 15079)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 14690)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13934)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11794)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15140)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant