Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phẩm điểu dụ

07 Tháng Mười Một 201100:00(Xem: 13191)
Phẩm điểu dụ

KINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN
Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang

Quyển thứ tám

PHẨM ÐIỂU DỤ 

Phẩm XIV

Lúc bấy giờ, đức Phật bảo Bồ tát Ca Diếp rằng :

- Này thiện nam tử ! Chim có hai giống, một tên là Ca lâu đê, hai tên là Uyên ương, bay đi hay dừng lại chung cùng, chẳng rời bỏ nhau. Những pháp như là Khổ, Vô thường, Vô ngã... cũng lại như vậy, chẳng được rời nhau.

Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng :

- Thưa đức Thế Tôn ! Sao gọi là Khổ, Vô thường, Vô ngã như là chim Uyên ương, Ca lâu đề kia?

Ðức Phật dạy rằng :

- Này thiện nam tử ! Pháp khác là Khổ - pháp khác là Lạc, pháp khác là Thường - pháp khác là Vô thường, pháp khác là Ngã - pháp khác là Vô ngã. Ví như gạo lúa ngon khác với mè, lúa mạch, mè lúa mạch lại khác với đậu, lúa tẻ, mía đường. Các giống như vậy, từ mầm chồi của chúng cho đến hoa lá đều là vô thường. Khi quả trái chín thành, con người thọ dụng thì mới là thường. Vì sao vậy? Vì tính chân thật vậy.

Ngài Ca Diếp bạch đức Phật rằng :

- Thưa đức Thế Tôn ! Những vật như vậy nếu là Thường thì đồng với Như Lai sao?

Ðức Phật dạy rằng :

- Này thiện nam tử ! Ông nay chẳng nên nói lời như vậy. Vì sao vậy? Vì nếu nói rằng, Như Lai như núi Tu Di, khi kiếp hoại thì núi Tu Di đổ nát, Như Lai bấy giờ há đồng hủy hoại sao? Này thiện nam tử ! Ông nay chẳng nên thọ trì nghĩa đó ! Này thiện nam tử ! Tất cả các pháp, chỉ trừ Niết Bàn, lại không một pháp nào mà là thường cả ! Những vì thế đế nói rằng quả trái thường.

Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng :

- Thưa đức Thế Tôn ! Hay thay ! Hay thay ! Ðúng như lời nói của đức Phật !

Ðức Phật bảo ngài Ca Diếp rằng :

- Ðúng vậy ! Ðúng vậy ! Này thiện nam tử ! Tuy tu tập tất cả Khế kinh, các định nhưng thậm chí chưa nghe Ðại bát Niết Bàn thì đều nói rằng, tất cả đều là vô thường. Nghe Kinh này rồi, tuy có phiền nãonhư không phiền não, liền có thể lợi ích cho tất cả người, trời. Vì sao vậy? Vì hiểu rõ thân mình có Phật tính. Ðó gọi là Thường. Lại nữa, này thiện nam tử ! Ví như cây Am La, hoa cây ấy mới nở thì gọi là vô thường tướng, nếu thành quả trái nhiều sự lợi ích thì mới gọi là thường. Như vậy, này thiện nam tử ! Tuy tu học tất cả Khế kinh, các định nhưng khi chưa nghe Ðại Niết Bàn như vậy thì đều nói rằng, tất cả đều là vô thường. Nghe kinh này rồi, tuy có phiền não nhưng như không phiền não, liền có thể ích lợi cho tất cả người, trời. Vì sao vậy? Vì hiểu rõ tự thân có Phật tính. Ðó gọi là Thường - Lại nữa, này thiện nam tử ! Ví như quặng vàng khi tiêu chảy ra là tướng vô thường. Tiêu chảy ra rồi thì thành vàng, nhiều sự lợi ích mới gọi là Thường. Như vậy, này thiện nam tử ! Tuy tu học tất cả Khế kinh, các định nhưng khi chưa nghe Ðại Niết Bàn như vậy thì đều nói rằng, tất cả đều là vô thường. Nghe Kinh này rồi, tuy có phiền não nhưng như không phiền não, liền có thể lợi ích cho tất cả trời, người. Vì sao vậy? Vì hiểu rõ tự thân có Phật tính vậy. Ðó gọi là Thường. Lại nữa, này thiện nam tử ! Ví như hạt mè khi chưa bị ép thì gọi là vô thường. Khi đã ép thành dầu, có nhiều lợi ích thì mới gọi là Thường. Này thiện nam tử ! Tuy tu học tất cả Khế kinh, các định nhưng khi chưa nghe Ðại Niết Bàn như vậy thì đều nói rằng, tất cả đều là vô thường. Nghe Kinh này rồi, tuy có phiền não nhưng như không phiền não, liền có thể lợi ích cho tất cả trời, người. Vì sao vậy? Vì hiểu rõ thân mình có Phật tính vậy. Ðó gọi là Thường. Lại nữa, này thiện nam tử ! Ví như mọi dòng nước đều về với biển, tất cả khế kinh, các định tam muội đều về với kinh Ðại Thừa Ðại Niết Bàn. Vì sao vậy? Vì rốt ráo giỏi nói có Phật tính. Này thiện nam tử ! Vậy nên ta nói rằng, Pháp khác là thường, pháp khác là vô thường... cho đến Vô ngã cũng lại như vậy.

Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng :

- Thưa đức Thế Tôn ! Như Lai đã lìa khỏi tên độc ưu bi. Ưu bi thì gọi là trời mà Như Lai chẳng phải là trời. Ưu bi thì gọi là người mà Như Lai chẳng phải là người. Ưu bi là gọi người của hai mươi lăm cõi hữu mà Như Lai chẳng phải là người của hai mươi lăm cõi hữu. vậy nên Như Lai không có ưu bi mà vì sao xưng rằng, Như Lai ưu bi? Này thiện nam tử ! Trời Vô tưởng thì gọi là vô tưởng. Nếu vô tưởng thì không thọ mạng. Nếu không thọ mạng thì làm sao mà có ấm, giới, các nhập. Do ý nghĩa này nên trời Vô tưởng thọ (sống lâu) chẳng thể nói rằng, có chỗ sở trụ. Này thiện nam tử ! Ví như vị thần cây nương vào cây mà trụ, chẳng được nói nhất định rằng, nương cành, nương đốt, nương thân, nương lá. Tuy không định được chỗ nương nhưng chẳng được nói rằng không. Thọ của trời Vô tưởng cũng lại như vậy. Này thiện nam tử ! Phật pháp cũng vậy, thậm thâm khó giải. Như Lai thật không ưu bi khổ não mà đối với chúng sinh khởi lên Ðại Từ Bi, thị hiệnưu bi nhìn các chúng sinh như La Hầu La. Lại nữa, này thiện nam tử ! Sở hữu thọ mạng trong trời Vô tưởng chỉ có Phật có thể biết, chẳng phải có ai khác bì kịp ! Cho đến Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ cũng lại như vậy. Này Ca Diếp ! Tính của Như Lai thanh tịnh, vô nhiễm giống như hóa thân. Sao gọi là phải có ưu bi khổ não? Nếu nói rằng, Như Laiưu bi khổ não thì làm sao có thể lợi cho tất cả chúng sinh, hoằng hóa Phật pháp rộng? Nếu nói rằng, không thì làm sao mà nói rằng bình đẳng nhìn chúng sinh như La Hầu La. Nếu chẳng bình đẳng nhìn chúng sinh như La Hầu La thì lời nói như vậy là hư vọng. Do ý nghĩa này nên, này thiện nam tử ! Phật chẳng thể nghĩ bàn ! Pháp chẳng thể nghĩ bàn ! Phật tính của chúng sinh chẳng thể nghĩ bàn ! Thọ của trời Vô tưởng chẳng thể nghĩ bàn ! Như Lai có ưu và cả không ưu là cảnh giới của Phật, chẳng phải là điều hiểu biết của Thanh Văn, Duyên Giác. Này thiện nam tử ! Ví như nhà cửa, vi trần chẳng thể trụ đứng trong hư không. Nhưng nếu nói rằng, nhà cửa chẳng nhân vào hư không mà trụ thì không có điều đó. Do ý nghĩa này nên chẳng thể nói nhà cửa trụ ở hư không hay chẳng trụ ở hư không. Người phàm phu tuy lại nói rằng, nhà cửa trụ ở hư không, nhưng mà hư không đó thật không sở trụ. Vì sao vậy? Vì tính không trụ vậy. Này thiện nam tử ! Tâm cũng như vậy, chẳng thể nói rằng, trụ ở ấm, giới, nhập và cả chẳng trụ nữa. Thọ của trời Vô Tưởng cũng lại như vậy. Ưu bi của Như Lai cũng lại như vậy. Nếu Phật không ưu bi thì sao nói rằng bình đẳng nhìn chúng sinh như La Hầu La? Nếu nói rằng, có ưu bi thì sao lại nói rằng, tính đồng hư không? Này thiện nam tử ! Ví như nhà huyễn thuật tuy hóa làm đủ thứ cung điện, sát sinh, nuôi lớn, trói buộc, buông bỏ và hóa làm vàng, bạc, lưu ly... vật báu, rừng rậm, cây cối... nhưng đều không thật tính. Như Lai cũng vậy, thuận theo thế gian, thị hiện ưu bi nhưng không có chân thật. Này thiện nam tử ! Như Lai đã vào Ðại Bát Niết Bàn rồi thì sao phải có ưu bi khổ não? Nếu cho là Như Lai vào với Niết Bànvô thường thì ông phải biết người đó có ưu bi. Nếu cho là Như Lai chẳng vào Niết Bàn, thường trụ bất biến thì ông phải biết người đó không có ưu bi. Như Laiưu bi và cả không ưu bi thì không ai có thể biết được.

Lại nữa, này thiện nam tử ! Ví như người thấp có thể biết pháp thấp, chẳng biết pháp trung và pháp trên. Người trung thì biết pháp trung, chẳng biết đến pháp thượng. Người trên (thượng) thì biết pháp Thượng và biết pháp trung, pháp dưới. Thanh Văn, Duyên Giác cũng lại như vậy, biết ngang tầm địa vị của mình. Như Lai chẳng vậy, biết hết tầm địa vị của mình và cả tầm địa vị người khác. Vậy nên Như Lai gọi là Vô Ngại Trí, thị hiện huyễn hóa thuận theo thế gian, phàm phu mắt thịt cho đó là chân thật mà muốn tận biết trí Vô thượng vô ngại của Như Lai thì không có điều này. Có ưu bi hay không ưu bi thì chỉ có Phật mới có thể biết. Do nhân duyên này nên pháp khác có ngã, pháp khác không ngã. Ðó gọi là tính của Uyên ương và Ca Lân Ðề. Lại nữa, này thiện nam tử ! Phật pháp giống như chim Uyên ương đi chung. Chim Ca lân đề và chim Uyên ương, nước và mùa hạ đầy tràn lênh láng, chúng chọn lựa chỗ cao cho con mình ở yên ổnnuôi dưỡng. Rồi nhiên hậu tùy theo sự yên ổn căn bản mà nó bay đi kiếm ăn. Như Lai ra đời cũng lại như vậy, hóa độ vô lượng chúng sinh khiến cho họ trụ ở Chánh pháp như chim Uyên ương và chim Ca lân đề khi chọn lựa vùng cao để an trí con của mình. Như Lai cũng vậy, khiến cho các chúng sinh... việc làm đã hoàn thành, liền vào với Ðại Bát Niết Bàn. Này thiện nam tử ! Ðó gọi là pháp khác là khổ, pháp khác là vui, các hành là khổ, Niết Bàn là vui, là đệ nhất vi diệu phá hoại các hành vậy.

Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng :

- Thưa đức Thế Tôn ! Sao gọi là chúng sinh được Niết Bàn thì gọi là Ðệ nhất lạc?

Ðức Phật dạy rằng :

- Này thiện nam tử ! Như lời nói của ta, các hành hòa hợp gọi là lão tử.

Cẩn thận không buông lung Chỗ đó là cam lộ

Chẳng cẩn thận, buông lung Ðó gọi là câu chết (tử cú)

Nếu người chẳng buông lung Thì được chỗ bất tử.

Như người ấy buông lung Thường đi vào tử lộ (đường chết).

Nếu buông lung thì gọi là pháp hữu vi. Pháp hữu vi này là đệ nhất khổ. Chẳng buông lung thì gọi là Niết Bàn. Niết Bàn đó thì gọi là cam lộ đệ nhất lạc. Nếu đi theo các hành thì đó gọi là chỗ chết, thọ đệ nhất khổ. Nếu đến Niết Bàn thì gọi là bất tử, thọ tối diệu lạc. Nếu chẳng buông lung thì tuy tập (qua) các hành nhưng đó cũng gọi là thường lạc, chẳng chết, chẳng phá hoại thân. Sao gọi là buông lung? Sao gọi là chẳng buông lung? Chẳng phải Thánh, phàm phu thì gọi phóng dật, pháp thường tử (thường chết). Thánh nhân xuất thế thì chẳng buông lung, không có già chết. Vì sao vậy? Vì vào đến Ðệ nhất thường lạc Niết Bàn. Do ý nghĩa này nên pháp khác là khổ, pháp khác là vui, pháp khác là ngã, pháp khác là Vô ngã. Như người ở tại đất ngước xem hư không, chẳng thấy dấu vết loài chim. Này thiện nam tử! Chúng sinh cũng vậy, không có thiên nhãn, ở trong phiền não mà chẳng tự thấy có Như Lai tính. Vậy nên ta nói Vô ngã mật giáo. Sở dĩ vì sao? Vì không thiên nhãn thì chẳng biết Chân ngã mà ngang ngược cho là Ngã. Nhân vào các phiền não đã tạo tác hữu vi tức là vô thường. Vậy nên ta nói rằng, pháp khác là thường, pháp khác là vô thường.

Người tinh tấn dũng kiện Như ở đỉnh núi cao

Ðất bằng và đồng trống Thường thấy phàm phu vào

Lên điện Ðại Trí Tuệ Ðài Vô thượng nhiệm mầu

Ðã tự trừ ưu hoạn Cũng thấy chúng sinh ưu.

Như Lai đoạn hết vô lượng phiền não, trụ ở núi trí tuệ, thấy các chúng sinh luôn ở trong vô lượng ức phiền não.

Bồ tát Ca Diếp lại bạch đức Phật rằng :

- Thưa đức Thế Tôn ! Như lời nói của kệ thì nghĩa đó chẳng vậy. Vì sao vậy? Vì vào Niết Bàn thì không lo, không mừng. Sao gọi là được thăng lên đài điện trí tuệ? Sao lại phải trụ tại đỉnh núi mà thấy chúng sinh?

Ðức Phật dạy rằng :

- Này thiện nam tử ! Ðiện trí tuệ tức là Niết Bàn. Không ưu hoạn là gọi Như Lai. Có ưu hoạn là gọi người phàm phu. Vì phàm phu ưu hoạn nên Như Lai không ưu hoạn. Ðỉnh núi Tu Di là gọi Chánh Giải thoát. Siêng tinh tấn là ví cho núi Tu Di không có chuyển động. Ðất là gọi hành hữu vi vậy. Những phàm phu này an trụ ở đất đó mà tạo tác các hành. Người trí tuệ ấy thì gọi là Chánh giác. Lìa khỏi “hữu”, thường trụ nên gọi là Như Lai. Như Lai thương xót nghĩ đến vô lượng chúng sinh thường bị trúng tên độc của các hữu. Vậy nên gọi là Như Laiưu bi.

Bồ tát Ca Diếp lại bạch đức Phật rằng :

- Thưa đức Thế Tôn ! Nếu giả sử Như Laiưu bi thì chẳng được xưng là Ðẳng Chánh Giác !

Ðức Phật bảo ngài Ca Diếp rằng :

- Ðều có nhân duyên ! Tùy theo chỗ có chúng sinh ưng thọ giáoNhư Lai ở trong đó thị hiện thọ sinh. Tuy hiện thọ sinh mà thật ra không sinh. Vậy nên Như Lai gọi là Pháp Thường Trụ như chim Ca lân đề và chim Uyên ương.v.v....

KINH ÐẠI BÁT NIẾT BÀN

- Quyển thứ tám hết -

 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 13330)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ, Đức Phật cùng với 1.250 vị đại Bhikṣu ở trên núi Thứu Phong gần thành Vương Xá...
(Xem: 18027)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1686. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 12549)
Tỉnh giác từ ngủ say Nên hoan hỷ tư duy Lắng nghe điều Ta nói Soạn tập lời Phật dạy
(Xem: 54334)
Trong kinh Bách Dụ, Phật đã dùng những chuyện xưa để thí dụ cụ thể sự dại dột mê lầm chung của chúng ta. Nếu chúng ta biết trừ bỏ mê lầm ở đâu thì Niết Bàn sẽ thực hiện ở đó.
(Xem: 14514)
Khi ấy, đức Thế Tôn ở trong Xá-vệ đại thành bộ hành, để khất thực[32]; dùng cơm xong, việc thọ thực hoàn tất, từ bỏ việc khất thực ở phía sau (quay về bổn xứ).
(Xem: 13901)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1644 - HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 58251)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1679 - Pháp Thiên dịch Phạn ra Hán, HT Thích Như Điển dịch Hán ra Việt
(Xem: 13381)
Lành thay, Thế Tôn! Nay xin vì con mà nói vắn tắt pháp yếu. Sau khi nghe pháp, con sẽ ở một mình nơi chỗ vắng, tu tập không buông lung.
(Xem: 11983)
Hãy bứng gốc và buông bỏ tất cả các pháp sắc, thọ, tưởng, hành, thức – nghĩa là hãy bứng gốc và buông bỏ toàn bộ thế giới trong và ngoài mà ...
(Xem: 14730)
Như Lai là vua của các pháp, là bậc Chí tôn của các pháp. Lành thay Thế Tôn! Nên thuyết nghĩa này cho các Tỳ-kheo.
(Xem: 12209)
Thiền-Đà-Ca vương phải nên biết, Sinh tử khổ não, nhiều lỗi lầm, Trọn bị vô minh che, ngăn ngại, Ta nay vì họ hưng lợi ích.
(Xem: 13723)
Này các đệ tử, sau khi Như Lai qua đời, các vị phải trân trọng, cung kính giới luật như kẻ nghèo hèn được giàu có, như kẻ đui mù được sáng mắt.
(Xem: 13402)
Tôi nghe như vầy: Bấy giờ, có số đông Tỳ-kheo Thượng tọa trú ở tại vườn Cù-sư-la, nước Câu-xá-di[2].
(Xem: 12244)
Đức Phật thường nói rằng chỉ có một cách duy nhất vượt qua bờ phiền não là: xa lìa tham sân si.
(Xem: 11923)
Thuộc Tăng Chi Bộ (Anguttaranikàya) của Kinh tạng Pàli, đây là một bài kinh được tụng đọc thường nhật ở các xứ Phật giáo Nam Truyền
(Xem: 42177)
Bản dịch Việt ngữ từ bản chữ Hán năm 1898 Chùa Xiển Pháp tại thôn An Trạch, Tỉnh Hà Nội...
(Xem: 38940)
Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm bản chữ Hán và Việt dịch của Quảng Minh
(Xem: 14820)
Tây Thiên dịch kinh Tam tạng, Triều tán Đại phu, Thí Hồng Lư khanh, Truyền pháp Đại sư, Thần Thí Hộ phụng chiếu dịch; Phước Nguyên dịch Việt và chú.
(Xem: 12801)
đệ tử Phật, ngày cũng như đêm, thường xuyên chí thành, hết lòng trì tụng, quán niệm khắc ghi, tám điều giác ngộ, của bậc Đại nhân.
(Xem: 16120)
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch từ Phạn sang Hán, Tỳ Kheo Thích Duy Lực Dịch Từ Hán Sang Việt
(Xem: 14536)
Một thời, Đức Phật và một nghìn hai trăm năm mươi đại chúng tì-kheo cùng trụ ở tinh xá Mỹ Xưng phu nhân của trưởng giả Tu-đạt, rừng cây của thái tử Kì-đà, nước Xá-vệ.
(Xem: 13770)
Đức Phật ra đời suốt bốn mươi năm trời thuyết pháp, có đến hơn tám vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp môn chính là phương pháp mở cửa tuệ giác tâm linh.
(Xem: 16471)
Chỉ tự quán thân, thiện lực tự nhiên, chánh niệm tự nhiên, giải thoát tự nhiên, vì sao thế? Ví như có người tinh tấn trực tâm, được giải thoát chân chánh, người như thế chẳng cầu giải thoátgiải thoát tự đến.
(Xem: 13224)
Trong nước mỗi mỗi báu ấy đều có sáu mươi ức hoa sen thất bửu. Mỗi mỗi hoa sen tròn đều mười hai do tuần.
(Xem: 12996)
Nếu có nghe kinh này thọ trì đọc tụng giảng thuyết tu hành như lời, Bồ Tát này đã là cúng dường chư Phật ba đời rồi.
(Xem: 14275)
Ở đây, chúng tôi chỉ cố gắng ghi lại nghĩa Việt theo khả năng học hiểu về cổ ngữ Sanskrit.
(Xem: 14197)
Chánh pháp quý giá của các ngài soi sáng khắp nơi và tuôn xuống như mưa cam-lộ. Tiếng nói của các ngài vi diệu đệ nhất.
(Xem: 16589)
Đây là một bộ kinh rất có ý nghĩalợi lạc vô cùng nếu được thường xuyên tụng đọc, hoặc giảng giải huyền nghĩa đến mọi người tín tâm.
(Xem: 12439)
Cần ban cho luật diện tiền liền ban cho luật diện tiền, cần ban cho luật ức niệm liền ban cho luật ức niệm,
(Xem: 14462)
Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác ; Nếu nói hoặc làm với tâm ô nhiễm, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo.
(Xem: 11408)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11112)
Tâm bậc giác ngộ được nói là không còn bám trụ vào bất cứ gì trên đời (bất cứ đối tượng nào của thức)
(Xem: 13260)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13963)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức
(Xem: 13258)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13086)
Thế Tôn đã giảng đời sống phạm hạnh chi tiếtrõ ràng, toàn hảo, hoàn toàn tinh khiết.
(Xem: 13581)
Người không sầu muộn, không than vãn, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh, đây là hạng người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.
(Xem: 13736)
Trong khi đi vào thành phố để khất thực, hoặc trong khi đi ra khỏi thành phố, (vị khất sĩ) phải thực tập tư duy như sau:
(Xem: 33753)
Vì sao gọi nước kia tên là Cực Lạc? Vì chúng sanh của nước ấy không có các khổ não, chỉ hưởng những điều vui.
(Xem: 11409)
Trong kinh nầy, Đức Phật giảng rằng Diệu Pháp chỉ tồn tại khi nào pháp hành Tứ Niệm Xứ được tu tập sung mãn.
(Xem: 13027)
Các đệ tử bậc thánh được chỉ dạy hiểu tâm này như nó thực sự là; do vậy, với đệ tử bậc thánh, có sự thăng tiến tâm.
(Xem: 13145)
Bộ Kinh “DUY MA CẬT” này, tôn yếu hiển bày pháp môn Bất Nhị. Chính đó là phương tiện của Chư Phật, Bồ Tát thị hiện,
(Xem: 11711)
VănThù Sư Lợi Ma Ha Bát Nhã ba la mật kinh vốn là mẹ của mười phương chư Phật , pháp môn huyền diệu của tất cả Bồ tát .
(Xem: 17981)
Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã, nơi đó tuyệt nhiên không có một pháp có thể nói được.
(Xem: 11517)
Đức Phật vì các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nói nhiều bài pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ.
(Xem: 11938)
“Này các thầy, thế nào gọi là Nghĩa Lý Siêu Việt về Không? Khi con mắt phát sanh, nó không từ đâu tới cả, và khi hoại diệt, nó không đi về đâu cả.
(Xem: 11616)
Đại quang minh này là do Thánh Quán Tự Tại Bồ-Tát phóng ra. Ngài vì muốn cứu độ hết thảy các hữu tình đang chịu đại khổ não nên...
(Xem: 19054)
Trong các thế gian có ba pháp không thể yêu, không trong sạch, không thể muốn, không vừa ý. Ba pháp là gì?
(Xem: 12649)
Người thọ Tam quybố thí sự vô uý cho hết thảy chúng sanh, cho nên quy y Phật, Pháp, Tăng, phước đức người ấy không thể kể được.
(Xem: 11443)
Ngài Phổ Hiền đã từng chứng pháp môn nầy lâu rồi nên lúc dạy ra cho chúng sanh đã làm cho ức ngàn trời người qua được biển khổ.
(Xem: 13235)
Đây là thông điệp cuối cùng của Đức Phật trao cho hàng đệ tử khi Phật sắp thị tịch niết bàn ở rừng Sala song thụ, thuộc thành Câu-thi-na-yết-la (Kussinagayâ), Ấn Độ.
(Xem: 15865)
Kinh này được Bụt nói vào khoảng một tháng trước ngày Người nhập diệt, chứa đựng những lời dặn dò đầy tâm huyết của Bụt cho hàng đệ tử xuất gia của Người.
(Xem: 11938)
Chư Thiện tri thức, pháp môn ta đây lấy Định Huệ làm căn bổn. Đại chúng chớ mê lầm mà nói Định với Huệ là khác nhau.
(Xem: 11784)
Bạch Thế Tôn ! Vì sao Bồ tát tu thiện vốn ít mà lại gặt quả nhiều, thành tựu nhiều phước báo công đức vô lượng?
(Xem: 12902)
Những nhân gì mà khiến cho các loài chúng sinh, phải chịu các quả báo sai khác tốt xấu trong lục đạo luân hồi.
(Xem: 12733)
Khởi ác tâm với Phật, hủy báng, sanh khinh mạn, vào trong địa ngục lớn, thọ khổ vô cùng tận.
(Xem: 14042)
“Tâm tưởng của hết thảy chúng sinh khác nhau, sự tạo nghiệp của họ cũng khác, nên mới có sự luân chuyển trong mọi thú”.
(Xem: 13056)
“Ta quán thấy ở cõi Nam Diêm-phù-đề này, trong thời kỳ mạt thế, do sự bạc phước của tất cả chúng sinh,các thứ ác quỷ thần khởi lên các tai nạn não loạn khiến cho chúng sinh không an"..
(Xem: 13029)
Tôi như Chiên Đà La, phải thanh tịnh thân tâm mà chẳng nên tịnh ăn uống. Tại sao?
(Xem: 13384)
Đứng trước cảnh tàn sát, lắng nghe tiếng rên siết, tự cảm thấy mình bất lực, mà tụng niệm kinh Kim Cương thì lại thấy tâm hồn dịu lại.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant