Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Thủ Lăng Nghiêm

06 Tháng Mười Một 201200:00(Xem: 40194)
Kinh Thủ Lăng Nghiêm

KINH THỦ LĂNG NGHIÊM

Hán dịch: Bát Thích Mật Đế - Việt Dịch: Cư Sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám
Phật Học Viện quốc Tế Xuất Bản PL 2527 - 1983

kinhthulangnghiem-tamminhledinhtham


mp3-audio-icon

TIỂU-SỬ CƯ SĨ
TÂM-MINH LÊ-ĐÌNH-THÁM

tamminhledinhtham-02Cư sĩ LÊ-ĐÌNH-THÁM, pháp-danh TÂM-MINH, tự CHÂU-HẢI, chánh-quán làng Đông-mỹ (Phú-mỹ), tổng Phú-khương, phủ Điện-bàn, tỉnh Quảng-Nam, là thứ-nam của Cụ Đông-các Điện đại-học-sĩ sung chức Binh-bộ Thượng-thư LÊ-ĐỈNH (Triều Tự-Đức), và Cụ kế-thất PHAN-THỊ-HIỆU, snah năm 1897 (Đinh-Dậu) tại Quảng-Nam;

Lúc nhỏ theo Nho-học, thụ-huấn trực-tiếp với Cụ Thượng thân-sinh ở nhà, cùng với bào-huynh là Đông-Dương y-sĩ LÊ-ĐÌNH-DƯƠNG (1), tuy tuổi còn non, song cả hai đều thông-đạt kinh-sách, văn bài thi phú đều làm được, nhất là Đạo-hữu có biệt-tài ứng-đối nhanh, nổi tiếng thần-đồng và là một danh-kỳ hữu-hạng tại quê nhà;

Lớn lên theo tân-học, thông-minh xuất-chúng, được thầy yêu bạn mến, luôn luôn dẫn đầu lớp và chiếm-đoạt khôi-thủ trong tất-cả các kỳ thi từ cấp tiểu-học đến đại-học, Đạo-hữu tốt-nghiệp Thủ-khoa Đông-dương Y-sĩ khóa năm 1916 tại Trường Cao-Đẳng Y-khoa Đông-dương Hà-Nội, và Y-khoa Bác-sĩ ngạch Pháp-quốc khóa năm 1930 tại Y-khoa Đại-học-đường Hà-Nội;

Ra trường nhằm lúc Phong-Trào Vua DUY-TÂN KHỞI-NGHĨA thất-bại, bào-huynh là Đông-dương Y-sĩ LÊ-ĐÌNH-DƯƠNG bị bắt đày lên Ban-mê-thuột, Đạo-hữu bị nhà cầm-quyền Thực-dân Pháp tình-nghi theo-dõi, nên trong suốt thời-gian phục-vụ tại các Bệnh-viện Bình-Thuận, Sông-Cầu, Qui-Nhơn, Tuy-Hòa (1916-1923) ngoài công-tác chuyên-môn, Đạo-hữu chỉ lo học-hỏi và nghiên-cứu thêm về Nho, Y, Lý, Số;

Năm 1926, phụ-trách Y-sĩ điều-trị tại Bệnh-viện Hội-An, trong một dịp viếng chùa TAM-THAI (Ngũ-Hành-Sơn) được đọc bài Kệ sau đây, ghi trên vách chùa, mà Đạo-hữu chú-ý đến Phật-Giáo :


Bồ-Đề bổn vô thọ,
Minh-cảnh diệc phi đài,
Bổn lai vô nhất vật,
Hà xứ nhã trần-ai. (2)

Tiếp đó, được tin nhà Cách-mạng PHAN-CHÂU-TRINH từ trần tại Saigon, Đạo-hữu cùng một số Thân-hào Nhân-sĩ và Công-chức Trí-thức Quảng-Nam tổ-chức lễ truy-điệu trọng-thể và cùng thọ tang Cụ PHAN. Một tháng sau, Đạo-hữu được khẩn-lệnh đổi đi Hà-Tĩnh;

Năm 1928, được thuyên-chuyển về Huế, làm Y-sĩ-trưởng tại Viện Bào-chế và Vi-trùng-hục PASTEUR, cọng-tác với Bác-sĩ NORMET, Giám-đốc Y-tế Trung-phần, phát-minh ra SÉRUM NORMET, được Y-giới Pháp-Việt đương-thời rất trọng-vọng.

Cũng năm ấy, Đạo-hữu lên chùa TRÚC-LÂM thỉnh-giáo Hòa-Thượng GIÁC-TIÊN về thâm-nghĩa bài Kệ chùa TAM-THAI rồi phát-tâm cùng Thượng-tọa THÍCH-MẬT-KHẾ nghiên-cứu Giáo-Lý, học-hỏi Kinh-Điển, tụng Kinh niệm Phật và phát-nguyện trường-trai, làm lễ Quy-Y, thọ Ưu-Bà-Tắc-giới, có pháp-danh TÂM-MINH từ đó;

Năm 1929-1932, sau hai năm liền thọ-giáo với Hòa-Thượng PHƯỚC-HUỆ (Hòa-Thượng chùa THẬP-THÁP, Bình-Định), đồng-thời chịu ảnh-hưởng cuộc Trùng-hưng Phật-Giáo Trung-Hoa của Ngài THÁI-HƯ PHÁP-SƯ qua sách báo HẢI-TRIỀU-ÂM, Đạo-hữu vâng lời chư Đại-Lão Hòa-Thượng PHƯỚC-HUỆ, GIÁC-TIÊN, GIÁC-NHIÊN, TỊNH-HẠNH, TỊNH-KHIẾT, đứng ra triệu-tập 18 vị đồng-lữ thảo Điều-lệ xin thành-lập HỘi AN-NAM PHẬT-HỌC, đặt trụ-sở đầu-tiên tại chùa TRÚC-LÂM, do Đạo-hữu làm Hội-trưởng, dưới sự chứng-minh sáng-lập của quý vị Hòa-Thượng nói trên và Đạo-hữu bắt-đầu thuyết-pháp tại chùa TỪ-QUANG, giảng-giải Kinh Luận tại tư-thất cho một số tín-hữu nhiệt-tâm cầu Đạo (quý Hòa-Thượng GIẢI-NGẠN, Sư-Bà DIỆU-KHÔNG, Thượng-Tọa MINH-CHÂU, lúc chưa xuất-gia, đều được nối tiếp đào-tạo trong những khóa-giảng này);

Năm 1933, phụ-trách Y-sĩ Giám-đốc Bệnh-viện bài Lao Huế, Đạo-hữu là một danh-y uy-tín nhất tại Đế-đô. 

Về Phật-sự, Đạo-hữu:

* Khởi-công trùng-tu Tổ-Đình Từ-Đàm làm Trụ-sở Trung-ương của Hội.
*Cử-hành Đại-Lễ Phật-Đản (Mồng tám tháng Tư Âm-lịch) đầu-tiên vô cùng trọng-thể tại chùa DIỆU-ĐẾ, gây ảnh-hưởng lớn lao trong mọi giới,
*Chủ-trương xuất-bản NGUYỆT-SAN VIÊN-ÂM, cơ-quan ngôn-luận và truyền-bá Giáo-Lý của Hội do Đạo-hữu làm Chủ-nhiệm kiêm Chủ-bút,
*Thiết-lập cơ-sở đào-tạo Tăng-Tài: Cấp Trung-Tiểu-học tại chùa BẢO-QUỐC do Hòa-Thượng THÍCH-TRÍ-ĐỘ làm Dốc-Giáo (quý Hòa-Thượng THIỆN-HÒA, THIỆN-HOA, Thượng-tọa THIỆN-SIÊU, TRÍ-QUANG, THIỆN-MINH, TRÍ-TỊNH, NHẬT-LIÊN... đều xuất-than tại Trường này), cấp Đại-học tại chùa TÂY-THIÊN do chính Đạo-hữu phụ-trách giảng-diễn về Luận-Học và Triết-Lý Đông, Tây (quý Hòa-Thượng ĐÔN-HẬU, TRÍ-THỦ, MẬT-HIỂN, MẬT-NGUYỆN, MẬT-THỂ... đều xuất-thân tại Trường này),
* Xúc-tiến thành-lập các Tỉnh-Hội, Chi-Hội, Khuông-Hội khắp nơi tại Trung-Phần, mở đầu là Tỉnh-Hội THỪA-THIÊN, ĐÀ-NẴNG, QUẢNG-NAM...;

-Năm 1934, tuy việc chuyên-môn, việc Hội, việc Báo-chí, việc Phật-học-viện rất bề-bộn, nhưng Đạo-hữu không lúc nào xao-lãng sự học, sự tu và sở-trường của Đạo-hữu là giảng-diễn Phật-Pháp; chính nhờ lối giải-thích, trình-bày Phật-Pháp một cách sáng-sủa, hợp-cơ mà Đạo-hữu đã áp-dụng, một số đông đồng-học, Cựu-học cũng như Tân-học, bình-dân cũng như trí-thức, đã hiểu Đạo Phật rất mau-chóng và đứng-đắn. Đạo-hữu thật xứng-đáng là một vị Pháp-sư Cư-sĩ, vừa Tông-Thông vừa Thuyết-thông khéo đưa Phật-Pháp ra giữa ánh-sáng như đưa viên ngọc quý ra khỏi những thế-lực vô-minh vùi-lấp;

Mùa Đông 1934, Hòa-Thượng GIÁC-TIÊN viên-tịch, ý-thức được trách-nhiệm hoằng-dương Chánh-pháp và duy-trì sinh-hoạt Giáo-Hội, nên trong lời ai-điếu Hòa-Thượng Bổn-Sư, Đạo-hữu đã phát-nguyện dõng-mãnh như sau:

"Kiến-tướng nguyên vọng, kiến-tánh nguyên chơn, viên giác diệu-tâm ninh hữu ngã;

Chúc-pháp linh truyền, chúc-sanh linh độ, thừa-đương di-huấn khởi vô nhân;" 

Tạm dịch :

"Tướng các Pháp tuy vọng, tánh các Pháp vốn chơn, Hòa-Thượng đâu có mất, còn; Chánh-Pháp, cần phải truyền, chúng-sanh cần phải độ, lời di-huấn đó, con nguyện xin gánh-vác";

Năm 1935, để thích-ứng với nhu-cầu tiến-triển của Hội, bản Điều-lệ của Hội được tu-chỉnh qua quyết-nghị của Đại-hội-đồng: Một Ban Tổng-Trị-Sự được thiết-lập tại Huế trực-tiếp điều-hành các Tỉnh-Hội và năm nào Đạo-hữu cũng được Đại-hội tín-nhiệm công-cử vào chức-vụ Hội-Trưởng hoặc Cố-Vấn để điều-hành Phật-sự chung;

Mùa Thu năm này, Đạo-hữu dời nhà từ Bệnh-Viện lên ở số 31 đường Nguyễn-Hoàng (dốc Bến-Ngự), tiếp-tục giảng Kinh, viết báo, quy-tụ một số thanh-niên Phật-tử trí-thức thành-lập ĐOÀN THANH-NIÊN PHẬT-HỌC ĐỨC-DỤC, sáng-lập GIA-ĐÌNH PHẬT-HOÁ-PHỔ (tiền-thân của GIA-ĐÌNH PHẬT-TỬ VIỆT-NAM ngày nay) nhằm duy-trì đạo-đức, xây-dựng chánh-tín cho đàn hậu thế;

Ngoài ra, theo gương Phật-giáo Trung-Hoa, qua nhiều năm nghiên-cứu kế-hoạch và vận-động phương-tiện, quyết-tâm xây-dựng nền-móng vĩnh-cửu cho cơ-sở đào-tạo Tăng-Tài, năm 1944, Đạo-hữu sắp-xếp di-chuyển các Phật-học-viện lên thiết-trí tại Kim-Sơn, thành-lập TỔNG-LÂM KIM-SƠN (Huế), nhưng thời-cuộc không cho phép, công-tác đành phải tạm ngưng, sau hai năm hoạt-động;

Nhờ công-đức của Đạo-hữu, vừa tài-thí vừa Pháp-thí, chủ-trương và duy-trì mà HỘI AN-NAM PHẬT-HỌC, NGUYỆT-SAN VIÊN-ÂM (3) và PHẬT-HỌC-VIỆN đã vượt khỏi mọi thăng-trầm vất-vả, mọi chướng-ngại thế-gian, gây được một thanh-thế lớn giữa trào-lưu PHỤC-HƯNG ĐẠO-PHÁP, PHỤC-HƯNG DÂN-TỘC, kích-động PHẬT-GIÁO NAM, BẮC đưa PHẬT-GIÁO nước nhà từ chỗ quên-lãng đến địa-vị như ngày nay;

Năm 1945 sau cuộc Đảo-chánh Nhật, được Chánh-Phủ TRẦNH-TRỌNG-KIM mời giữ chức-vụ Giám-Đốc Y-Tế Trung-Phần kiêm Giám-Đốc Bệnh-Viện Huế;

Mùa Đông 1946, chiến-cuộc bùng-nổ, dân-chúng Huế tản-cư, Đạo-hữu cùng gia-đình cũng tản-cư về nguyên-quán Quảng-nam, tham-gia Kháng-Chiến chống Pháp;

Năm 1947-1949, làm chủ-tịch Ủy-Ban Hành-Chánh Kháng-Chiến Miền Nam Trung-bộ tại Liên-Khu V và tập-họp một số cựu Đoàn-viên Thanh-Niên Phật-Học-Đức-Dục, cựu Huynh-trưởng Gia-Đình Phật-Tử, cựu Hội-viên Hội Phật-Học cùng những phần-tử trí-thức Kháng-Chiến thành-lập PHONG-TRÀO PHẬT-GIÁO VÀ DÂN-CHỦ-MỚI do chính Đạo-hữu chủ-trì và hướng-dẫn nghiên-cứu và so-sánh giữa Giáo-Lý nhà Phật và Chủ-thuyết Mác-Lê tại Bồng-Sơn (Bình-Định);

Mùa Hạ 1949, được điện mời ra Bắc, đề-bạt làm Chủ-Tịch Phong-Trào Vận-Động Hòa-Bình Thế-Giới, mặc-dù tình-thế đảo-điên, nhân-tâm điên-đảo, nhưng Đạo-hữu vẫn an-nhiên diễn-giảng, nhân-tâm điên-đảo, nhưng Đạo-hữu vẫn an-nhiên diễn-giảng, phiên-dịch Phật-Pháp. Cuối-cùng trọn bộ KINH THỦ-LĂNG-NGHIÊM được dịch và xuất-bản vào mùa Xuân năm Tân-Sửu (1961) tại chùa QUÁN-SỨ (Hà-Nội) và từ-trần ngày 23-04-1969 (tức ngày Mồng bảy tháng Ba năm Kỷ-Dậu) tại Hà-Nội. Thọ 73 tuổi.

Saigon, Mùa Vu-Lan năm Quý-Sửu.

GHI-CHÚ:

(1) - Y-sĩ LÊ-ĐÌNH-DƯƠNG tốt-nghiệp Á-khôi Đông-dương Y-sĩ khóa đầu-tiên năm 1915 tại Trường Cao-đẳng Y-khoa Đông-dương, Hà-Nội, và được bổ-nhiệm Y-sĩ điều-trị tại bệnh-Viện Hội-An (Quảng-Nam), tham-gia VIỆT-NAM QUAN-PHỤC-HỘI, cùng với Cụ TRẦN-CAO-VÂN, THÁI-PHIÊN, PHAN-THÀNH-TÀI...phụ-trách lãnh-đạo Phong-Trào Vua DUY-TÂN KHỞI-NGHĨA tại nam-Ngãi và bị thực-dân Pháp bắt đày lên Ban-mê-thuột năm 1916, cuối-cùng không chịu nổi sự tủi-nhục và đày-ải khắc-nghiệt của viên Công-sứ Thực-dân SABATIER nên Y-sĩ đã uống Cyanure de Mercure để tự sát năm 1919. Hưởng-dương 26 tuổi.

(2) - Tác-giả là Ngài LỤC-TỔ HUỆ-NĂNG.

(3) - Sau này, một loại sách nữa do Thanh-niên Phật-tử trí-thức được Đạo-hữu hướng-dẫn biên-tập, đó là PHẬT-HỌC TÙNG-THƯ.

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 43959)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 43040)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366, Đoàn Trung Còn và Nguyễn Minh Tiến dịch
(Xem: 49029)
Có một lúc, đức Phật ở trong núi Kỳ-xà-quật gần thành Vương Xá, cùng với các vị đại tỳ-kheo mười hai ngàn người, đại Bồ Tát là tám mươi ngàn người.
(Xem: 39870)
Bấy giờ, đức Thế Tôn ở giữa đại chúng, vì đại chúngthuyết giảng giáo pháp nhiệm mầu, trừ sạch bốn điên đảo, khiến cho được rõ biết các pháp lành...
(Xem: 53803)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, lúc mới Chuyển pháp luân độ ông A-nhã Kiều-trần-như, đến khi thuyết pháp lần cuối cùng độ ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 36835)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng. Nếu thấy các tướng thật chẳng phải tướng tức là thấy Như Lai.
(Xem: 40832)
Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: "Về phương đông, cách đây vô số cõi Phật nhiều như số cát sông Hằng, có một thế giới tên là Tịnh Lưu Ly.
(Xem: 49744)
Lúc ấy, Bồ Tát Vô Tận Ý từ chỗ ngồi đứng dậy, vén tay áo bên vai mặt, quỳ xuống chắp tay cung kính bạch Phật rằng...
(Xem: 47333)
Thế Tôn thành đạo dĩ, tác thị tư duy: “Ly dục tịch tĩnh, thị tối vi thắng.” Trụ đại thiền định, hàng chư ma đạo. Ư Lộc dã uyển trung...
(Xem: 27751)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 25868)
Quyển Kinh Lời Vàng này nguyên danh là "Phật Giáo Thánh Kinh" do nữ Phật tử Dương Tú Hạc biên trước bằng Hán Văn (người Trung Hoa).
(Xem: 29900)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27181)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 24771)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 21328)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23232)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 23893)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22821)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 29585)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20646)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 34171)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 24687)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30048)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20229)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20409)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15146)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 23906)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
(Xem: 34084)
Tiểu Bộ Kinh - Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
(Xem: 24008)
Quy mạng Lô Xá Na, Mười phương Kim Cương Phật. Ðảnh lễ đức Di Lạc, Sẽ hạ sanh thành Phật. Nay tụng ba tựu giới, Bồ Tát đều cùng nghe.
(Xem: 29204)
Tôi nghe như vầy: Một thời Thế-tôn, châu du giáo hóa các nước đến thành Quảng-nghiêm, ở nghỉ dưới cây Nhạc-âm, cùng với tám ngàn vị đại tỳ-kheo...
(Xem: 60167)
Bồ TátVô Tận Ý Khi bấy giờ chăm chỉ đứng lên Bèn trịch vai hữu một bên Chắp tay cung kính hướng lên Phật đài
(Xem: 27629)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 68754)
Chúng sanh đây có bấy nhiêu Lắng tai nghe lấy những điều dạy răn Các ngươi trước lòng trần tục lắm Nên kiếp nầy chìm đắm sông mê
(Xem: 24542)
Một thuở nọ Thế Tôn an trụ Xá Vệ thành Kỳ Thụ viên trung Mục Liên mới đặng lục thông Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm luân.
(Xem: 26379)
Lăng-già (Lanka) là tên núi, núi này do sản xuất châu Lăng-già nên lấy tên châu mà gọi tên núi. Núi nằm tại biển Nam là chỗ ở của Dạ-xoa.
(Xem: 20828)
Lư hương xạ nhiệt, Pháp-giới mông huân. Chư Phật hải hội tất diêu văn, Tùy xứ kiết tường vân
(Xem: 20073)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phảng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 27561)
Làm người Phật tử ở đời Đêm ngày tụng niệm những lời dạy khuyên Tám điều giác ngộ kinh truyền Ghi lòng tạc dạ tinh chuyên tu hành
(Xem: 46455)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 25596)
Phụng dịch theo bản đời Đường của Ngài Thiệt Xoa Nan Đà. Tham khảo các bản dịch đời Ngụy, Tống và bản dịch Anh Ngữ của Suzuki. - Dịch Giả: Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 29276)
VIMALAKĪRTINIRDEŚA - SŪTRA - Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết - Đường Huyền Trang dịch - bản dịch Việt: Tuệ Sỹ
(Xem: 189022)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi tam-bảo
(Xem: 27438)
Thắng Man Phu nhân điển hình cho phụ nữ thực hành Bồ tát đạo bằng cung cách trang nhã, từ ái, khiêm cung. Môi trường thực hành bao gồm từ giới hạn thân thuộc...
(Xem: 31153)
Kinh Pháp Cú (Kinh Lời Vàng), The Path of Truth - Việt dịch: Hòa Thượng Thích Minh Châu - Họa sĩ: Mr. P. Wickramanayaka (vẽ theo bản tiếng Anh mà HT Thích Minh Châu dịch) - Vi tính: Tâm Tịnh
(Xem: 33178)
Tích truyện Pháp Cú - Thiền viện Viên Chiếu - Nguyên tác: "Buddhist Legends", Eugène Watson Burlingame
(Xem: 24037)
Sau 45 năm thuyết pháp, những lời giảng daỵ của Đức Phật không những không bị quên lãng, thất lạc mà còn được lưu giữ, truyền bá mãi đến ngày nay...
(Xem: 25634)
Ta Bà là chốn tạm ở thôi Cửa không mau phải hồi đầu lại Hai sáu nguyện vương tiêu tai chướng Ba ngàn hoá Phật chứng lòng thành
(Xem: 26712)
Cuộc đối thoại đầy đạo vị hứng thú dĩ nhiên được truyền tụng khắp nơi trong giới Phật giáo cũng như ngoài nhân gian. Về sau, vào thế kỷ đầu sau Tây lịch, sợ để khẩu truyền lâu ngày
(Xem: 36675)
Ở phương Ðông cách đây hơn mười căn dà sa cõi Phậtmột thế giới tên là Tịnh Lưu Ly. Ðức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai
(Xem: 27356)
Lúc Đức Phật Thích-ca chứng đắc, Chuyển bánh xe chánh pháp độ sanh, Kiều-trần-như được duyên lành, Năm anh em họ viên thành lý chân,
(Xem: 30378)
Phật Thùy Ban Niết Bàn Lược Thuyết Giáo Giới Kinh (Kinh Di Giáo) - Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0389 - Cưu Ma La Thập dịch Hán; HT. Thích Trí Quang dịch Việt
(Xem: 37328)
Một thời Ðức Phật ở nước Xá Vệ, trong vườn Cấp Cô Ðộc, cây của thái tử Kỳ Ðà, cùng với các đại Tỳ Kheo Tăng... Thích Minh Định dịch
(Xem: 23909)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Kỳ Thọ Cấp Cô Độc gần thành Xá Vệ, với đại chúng khất sĩ gồm một ngàn hai trăm năm mươi vị. Hôm ấy vào giờ khất thực, Bụt mặc áo và ôm bát đi vào thành Xá Vệ.
(Xem: 36986)
Khuyến phát Bồ Đề Tâm văn; Âm Hán Việt: Cổ Hàng Phạm Thiên Tự Sa môn Thật Hiền soạn; Dịch: Sa môn Thật Hiền chùa Phạm Thiên Cổ Hàng soạn
(Xem: 27626)
Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm Kinh - Năm trăm Danh Hiệu Phật và Bồ Tát Quán Thế Âm
(Xem: 28345)
Công Phu Khuya
(Xem: 24167)
Nói một cách vắn tắt, sự xuất hiện của Duy-ma-cật là xu hướng khẳng định vai trò tích cực của chúng đệ tử tại gia trong giáo pháp của Phật, về các mặt hành đạo cũng như hóa đạo.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant