Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Thất Phật Phụ Mẫu Tánh Tự

13 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 12100)
Kinh Thất Phật Phụ Mẫu Tánh Tự

Kinh Thất Phật Phụ Mẫu tánh Tự

Đại Chánh Tân Tu số 0004 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

Thích Chánh Lạc dịch

Hiệu-chú: Tuệ Sỹ – Đức Thắng

Nghe như vầy[2]:

Một thời, Phật ở nước Xá-vệ. Trong nước, có người phụ nữ có con trai tên là Vô Diên do đó được gọi là Mẹ Vô Diên[3]. Phật cùng năm trăm Tỳ-kheo[4] đến nhà bà Vô Diên, ngồi thọ trai trên điện. Sau khi thọ trai[5], có khoảng mười Tỳ-kheo, ở chỗ khuất[6], bàn luận với nhau: Phật là bậc chúng ta tôn kính, thần uy vô cùng, biến hóa tự tại theo ý muốn, lẽ nào Ngài không biết Phật quá khứ và Phật tương lai, với tuổi thọ, tên họ cha mẹ, bao nhiêu đệ tử, sự tu hànhgiáo pháp của các Ngài.

Phật bằng thiên nhĩ nghe các Tỳ-kheo bàn luận về việc này; Ngài đến hỏi:

"Này các Tỳ-kheo, các thầy bàn luận về việc gì?"

Các Tỳ-kheo thưa:

"Chúng con nghĩ rằng Phật có thần thông tối thượng, đạo đức vi diệu, hiểu biết cao xa, không ai có thể hơn Ngài được. Phật biết rõ chư Phật quá khứ, chư Phật tương lai, với tuổi thọ, tên họ cha mẹ, bao nhiêu đệ tử, sự tu hànhý chí giáo lệnh."

Phật nói:

"Lành thay! Lành thay! Đúng như vậy. Các thầy hành pháp Sa-môn, nên nhớ nghĩ những việc lành như vậy. Các thầy muốn nghe tên họ chư Phật quá khứ với cha mẹ, đệ tử các Ngài không?"

Các Tỳ-kheo thưa:

"Chúng con muốn nghe."

Phật dạy:

"Các Thầy hãy lắng nghe! Đức Phật thứ nhất tên Duy-vệ[7], nhập Niết-bàn đến nay đã chín mươi mốt kiếp. Phật thứ hai tên Thức[8], nhập Niết-bàn đến nay cũng đã ba mươi mốt kiếp. Phật thứ ba tên Tùy-diệp[9], nhập Niết-bàn đến nay đã ba mươi mốt kiếp. Trong kiếp Phi-địa-la[10] sẽ có một ngàn Phật, thứ nhất tên Phật Câu-lâu-tần[11], đức Phật thứ hai tên Phật Câu-na-hàm Mâu-ni[12], thứ ba tên Phật Ca-diếp [13], thứ tư là Ta, Phật Thích-ca Văn-ni.

"Phật Duy-vệ họ Câu-lân[14]. Phật Thức cũng họ Câu-lân. Phật Tùy-diệp cũng họ Câu-lân. Phật Câu-lâu-tần họ Ca-diếp. Phật Câu-na-hàm Mâu-ni, cũng họ Ca-diếp, Phật Ca-diếp cũng họ Ca-diếp. Nay, Ta, Phật Thích-ca Văn-ni họ Cù-đàm[15].

"Phật Duy-vệ dòng Sát-lợi. Phật Thức cũng dòng Sát-lợi. Phật Tùy-diệp cũng dòng Sát-lợi. Phật Câu-lâu-tần dòng Bà-la-môn. Phật Câu-na-hàm Mâu-ni cũng dòng Bà-la-môn. Phật Ca-diếp cũng dòng Bà-la-môn. Đến nay, Ta, Phật Thích-ca Văn-ni dòng Sát-lợi.

"Phật Duy-vệ, cha tên Bàn-biểu,[16] vua dòng Sát-lợi; mẹ tên Bàn-đầu-mạt-đà[17], trị vì đất nước tên Sát-mạt-đề[18].

"Phật Thức, cha tên A-luân-noa[19], vua dòng Sát-lợi; mẹ tên Ba-la-ha-việt-đề[20], trị vì đất nước tên A-lâu-na-hòa-đề[21].

"Phật Tùy-diệp, cha tên Tu-ba-la-đề-hòa[22], vua dòng Sát-lợi; mẹ tên Da-xa-việt-đề[23], trị vì đất nước tên A-nâu-ưu-ma[24]. Phật Câu-lâu-tần, cha tên A-chi-vi-đâu[25], dòng Ba-la-môn; mẹ tên Tùy-xá-ca[26]. Quốc gia tên Luân-ha-lợi-đề-na[27]. Quốc vương hiệu Tu-ha-đề[28].

"Phật Câu-na-hàm Mâu-ni, cha tên Gia-thiểm-bát đa[29], dòng Bà-la-môn; mẹ tên Uất-đa-la[30], nước tên Sai-ma-việt-đề[31]. Quốc vương hiệu Sai-ma[32].

"Phật Ca-diếp, cha tên A-chi-đạt-da[33], dòng Bà-la-môn; mẹ tên Đàn-na-việt-đề-da[34], nước hiệu Ba-la-tư[35]. Quốc vương hiệu Kỳ-thậm-đọa[36].

"Nay, Ta Phật Thích-ca Văn-ni, cha tên Duyệt-đầu-đàn[37], vua dòng Sát-lợi; mẹ tên Ma-ha Ma-da[38]. Nước tên Ca-duy-la-vệ [39], Đại vương đời trước tên Bàn-đề.[40]

"Phật Duy-vệ thọ tám vạn tuổi[41]. Phật Thức thọ bảy vạn tuổi[42]. Phật Tùy-diệp thọ sáu vạn tuổi[43]. Phật Câu-lâu-tần thọ bốn vạn tuổi[44]. Phật Câu-na-hàm Mâu-ni thọ ba vạn tuổi[45]. Phật Ca-diếp thọ hai vạn tuổi[46]. Ta, Phật Thích-ca Văn thọ trên dưới một trăm tuổi.

"Con Phật Duy-vệ tên Tu-viết-đa-kiện-đa[47]. Con Phật Thức tên A-đâu-la[48]. Con Phật Tùy-diệp tên Tu-ba-la-viết[49]. Con Phật Câu-lâu-tần tên Uất-đa-la[50]. Con Phật Câu-na-hàm Mâu-ni tên Đọa-di-đa-tiên-na[51]. Con Phật Ca-diếp tên Sa-đa-hòa[52]. Nay, con Ta, Phật Thích-ca Văn-ni tên La-vân[53].

"Phật Duy-vệ đắc đạo thành Phật dưới cây Ba-đa-la[54]. Phật Thức đắc đạo thành Phật dưới cây Phân-đồ-lợi[55]. Phật Tùy-diệp đắc đạo thành Phật dưới cây Tát-la[56]. Phật Câu-lâu-tần đắc đạo thành Phật dưới cây Tư-lợi[57]. Phật Câu-na-hàm Mâu-ni đắc đạo thành Phật dưới cây Ô-tạm[58]. Phật Ca-diếp đắc đạo thành Phật dưới cây Ni-câu-loại[59]. Nay, Ta thành Phật Thích-ca Văn-ni dưới cây A-bái-đa[60]. Thị giả Phật Duy-vệ tên A-luân[61]. Thị giả Phật Thí tên Sai-ma-yết[62]. Thị giả Phật Tùy-diệp tên Phục-chi-diệp[63]. Thị giả Phật Câu-lâu-tần tên Phù-đề[64]. Thị giả Phật Câu-na-hàm Mâu-ni tên Tát-chất[65]. Thị giả Phật Ca-diếp tên Tát-ba-mật[66]. Ta, Phật Thích-ca Văn-ni, thị giả tên A-nan [67].[68]

"Phật Duy-vệ có đệ tử đệ nhất tên Tắc, đệ nhị tên Chất-hàm[69]. Phật Thức có đệ tử đệ nhất tên A-tỷ-vụ, đệ nhị tên Tam-tham[70]. Phật Tùy-diệp có đệ tử đệ nhất tên Phật-đề, đệ nhị tên Uất-đa[71]. Phật Câu-lâu-tần có đệ tử đệ nhất tên Tăng-kỳ, đệ nhị tên Duy-lưu[72]. Phật Câu-na-hàm Mâu-niđệ tử đệ nhất tên Chuyển Luân, đệ nhị tên Uất-đa[73]. Phật Ca-diếpđệ tử đệ nhất tên Chất-da-luân, đệ nhị tên Ba-đạt-hòa[74]. Nay đệ tử đệ nhất của Ta, Phật Thích-ca Văn-ni là Xá-lợi-phất-la, đệ nhị tên Ma-ha Mục-kiền-liên[75].

"Phật Duy-vệ thuyết ba hội kinh cho các Tỳ-kheo. Hội thuyết kinh thứ nhất có mười vạn Tỳ-kheo đắc quả A-la-hán. Hội thuyết kinh thứ hai có chín vạn Tỳ-kheo đắc quả A-la-hán. Hội thuyết kinh thứ ba có tám vạn Tỳ-kheo đắc quả A-la-hán.

"Phật Thức cũng có ba hội thuyết kinh. Hội thuyết Kinh thứ nhất có chín vạn Tỳ-kheo đắc quả A-la-hán. Hội thuyết kinh thứ hai có tám vạn Tỳ-kheo đắc quả A-la-hán. Hội thuyết kinh thứ ba có bảy vạn Tỳ-kheo đắc quả A-la-hán.

"Phật Tùy-diệp có hai hội thuyết kinh. Hội thuyết kinh thứ nhất có bảy vạn Tỳ-kheo đắc quả A-la-hán. Hội thuyết kinh thứ hai có sáu vạn Tỳ-kheo đắc quả A-la-hán.

"Phật Câu-lâu-tần thuyết pháp một hội, có bốn vạn Tỳ-kheo đắc quả A-la-hán.

"Phật Câu-na-hàm Mâu-ni thuyết pháp một hội, có ba vạn Tỳ-kheo đắc quả A-la-hán.

"Phật Ca-diếp thuyết pháp một hội, có hai vạn Tỳ-kheo đắc quả A-la-hán.

"Ta, Phật Thích-ca Văn-ni thuyết pháp một hội, có một ngàn hai trăm năm mươi Tỳ-kheo đều đắc quả A-la-hán."

Phật bảo các Tỳ-kheo:

"Không thể đo lường và xưng tán hết trí của Phật. Các Thầy nên thọ trì về sự xuất hiện, cha mẹ, Quốc vương, sự giáo hóa của bảy đức Phật."

Phật lại dạy các Tỳ-kheo:

"Kinh luật không thể không học. Đạo pháp không thể không hành trì. Đức Phật như người lái chiếc thuyền trong biển lớn, cả ngàn vạn người đều nương nhờ vào người lái để đi qua biển. Đức Phật dạy mọi người hành pháp thiện, đắc đạo quả và hóa độ thế gian cũng như vậy."

Các Tỳ-kheo nghe kinh này vui mừng, làm lễ rồi lui ra.

----------

CHÚ THÍCH

[1]. Bản hán: Thất Phật phụ mẫu tánh tự kinh, Vô danh dịch, thời Tiền Ngụy. Đại I, No. 4 , tr. 159a-160a. Tham chiếu: Phật thuyết Trường A-hàm kinh, Hậu Tần Hoằng thỉ niên, Phật-đà-da-xá cọng Trúc Phật Niệm dịch, 'Đệ nhất phầnđại bản kinh đệ nhất.' Đại I, No. 1(1) tr. 1a- 10c.

[2]. Nguyên Hán: Văn như thị 聞 如 是.

[3]. Vô Diên Mẫu 無 延 母, phiên âm của Mṛgāramātṛ (Pāli: Migāramātu), dịch Lộc Tử Mẫu 廘 子 母, tức bà Tỳ-xá khư (Pāli: Visākā).

[4]. Ngũ bách Tỳ kheo, 五 百 比 丘 (năm trăm Tỳ kheo); No. 1(1): Tỳ-kheo chúng thiên ngũ bách nhị thập nhơn, 大 比 丘 眾 千 二 百 五 十人 (chúng đại Tỳ-kheo một nghìn hai trăm năm mươi người).

[5]. Hán: phạn dĩ, 飯 已, (sau khi thọ trai); No. 1(1): Ư khất thực hậu, 於 乞 食 後, (sau khi khất thực).

[6]. Hán: ư bình xứ, 於 屏 處 (ở chỗ khuất ); No. 1(1): ở Hoa lâm đường 花 林 堂 .

[7]. Duy-vệ, 維 衛; No. 1(1): Tỳ-Bà-Thi, 毗 婆 尸.

[8]. Thức, 式; No. 1(1): Thi-khí, 尸 棄.

[9]. Tùy-diệp, 隨 葉; No. 1(1): Tùy-xá-bà, 毗 舍 婆.

[10]. Phi-địa-la kiếp, 披 地 羅 劫; No. 1(1): Hiền kiếp,賢 劫.

[11]. Câu-lâu-tần, 拘 樓 秦; No. 1(1): Câu-lâu-tôn 拘 樓 孫.

[12]. Câu-na-hàm-Mâu-ni 拘 那 含 牟 尼.

[13]. Ca-diếp, 迦 葉.

[14]. Câu-lân 拘 鄰; No. 1(1): Câu-lị-nhã, 拘 利 若.

[15]. Cù-đàm, 瞿 曇; Pāli: Gotama.

[16]. Bàn-biểu, 槃 裱; No. 1(1): Bàn-đầu, 槃 頭.

[17]. Bàn-đầu-mạt-đàø 槃 頭 末 陀; No. 1(1), Bàn-đầu-bà-đề; 槃 頭 婆 提.

[18]. Sát-mạt-đề, 殺 末 提; No. 1(1): Bàn-đầu-bà-đề, 槃 頭 婆 提.

[19]. A-luân-noa, 阿 輪 拏; No. 1(1), Minh Tướng, 明 相.

[20]. Ba-la-ha-việt-đề 波 羅 呵 越 提; No. 1(1), Quang Diệu,光 妙.

[21]. A-lâu-na-hòa-đề 阿 樓 那 惒 提; No. 1(1), Quang Tướng 光 相.

[22]. Tu-ba-la-đề-hòa, 須 波 羅 提 惒; No. 1(1)d, Thiện Đăng, 善 燈.

[23]. Da-xá-việt-đề, 耶 舍 越 提; No. 1(1) , Xứng Giới, 稱 戒.

[24]. A-nâu-ưu-ma, 阿(...)憂 摩; No. 1(1), Vô Dụ, 無 喻.

[25]. A-chi-vi-đâu, 阿 枝 違 兜; No. 1(1), Tự Đắc, 祀 得.

[26]. Tùy-xá-ca 隨 舍 迦; No. 1(1) , Thiện Chi, 善 枝ø.

[27]. Luân-ha-lợi-đề-na 輪 訶 唎 提 那; No. 1(1), An Hòa thành, 安 和 城.

[28]. Tu-ha-đề, 須 訶 提, No. 1(1), An Hòa, 安 和.

[29]. Da-thiểm-bát-đa 耶 睒 鉢 多; No. 1(1)d, Đại Đức, 大 德.

[30]. Uất-đa-la, 鬱 多 羅; No. 1(1), Thiện Thắng 善 勝.

[31]. Sai-ma-việt-đề, 差 摩 越 提 (có lẽ Skt. Kṣemavatī; Pāli: Khemavātī); No. 1(1): Thanh Tịnh thành, 清 淨 城.

[32]. Sai-ma 差 摩 (có lẽ Skt. Kwema; Pali: Khema ); No. 1(1), Thanh Tịnh, 清 淨.

[33]. A-chi-đạt-da, 阿 枝 達 耶; No. 1(1), Phạm Đức, 梵 德.

[34]. Đàn-na-việt-đề-da, 檀 那 越 提 耶; No. 1(1): Tài Chủ, 財 主.

[35]. Ba-la-tư, 波 羅 私; No. 1(1), Ba-la-nại, 波 羅 奈 城.

[36]. Kỳ-thậm-đọa, 其 甚 墮; No. 1(1), Cấp-tỳ, 汲 毗.

[37]. Duyệt-đầu-đàn, 閱 頭 檀, No. 1(1), Tịnh Phạn, 淨 飯.

[38]. Ma-ha Ma-da, 摩 訶 摩 耶; No. 1(1), Đại Thanh Tịnh Diệu, 大 清 淨 妙.

[39]. Ca-duy-la-vệ, 迦 維 羅 衛; No. 1(1), Ca-tì-la-vệ, 迦 毗 羅 衛.

[40]. Bàn-đề 槃 提 , không rõ.

[41]. No. 4, tuổi thọ của Phật; nhưng No. 1(1), tuổi thọ loài người đương thời.

[42]. Xem cht.41.

[43]. No. 1(1), người thời bấy giờ thọ bảy vạn tuổi.

[44]. Xem cht. 41.

[45]. Xem cht. 41.

[46]. Xem cht. 41.

[47]. Tu-viết-đa-kiện-đa, 須 曰 多 鞬 陀; No. 1(1), Phương Ưng, 方 膺.

[48]. A-đâu-la, 阿 兜 羅; No. 1(1) sđd.: Vô Lượng, 無 量.

[49]. Tu-ba-la-viết, 須 波 羅曰; No. 1(1) sđd.: Diệu Giác, 妙 覺.

[50]. Uất-đa-la, 鬱 多 羅; No. 1(1) sđd.: Thượng Thắng, 上 勝.

[51]. Đọa-di-đà-tiên-na, 墮 夷 陀 先 那; No. 1(1) sđd.: Đạo Sư, 道 師.

[52]. Sa-đa-hòa, 沙 多 和; No. 1(1) sđd.: Tập Quân, 集 軍.

[53]. La-vân, 羅 云; No. 1(1) sđd.: La-Hầu-La, 羅 候 羅.

[54]. Ba-đà-la, 波 陀 羅; No. 1(1) sđd.: Ba-ba-la, 波 波 羅.

[55]. Phân-đồ-lị, 分 塗 利; No. 1(1) sđd.: Phân-đà-lị, 分 陀 利.

[56]. Tát-la, 薩 羅; No. 1(1) sđd.: Bà-la, 婆 羅.

[57]. Tư-lợi, 斯 利; No. 1(1) sđd.: Thi-lị-sa, 尸利 沙.

[58]. Ô-tạm, 烏 暫; No. 1(1) sđd.: Ô-tạm-bà-la, 烏 暫 婆 羅.

[59]. Ni-câu-loại, 尼 拘 纇; No. 1(1) sđd.: Ni-câu-luật, 尼 拘 律.

[60]. A-bái-đa, 阿 沛多; No. 1(1) sđd.: Bát-đa, 鉢 多.

[61]. A-luân, 阿 輪; No. 1(1), sđd.: Vô Ưu, 無 優.

[62]. Sai-ma-yết, 差 摩 竭; No. 1(1) sđd.: Nhẫn-Hành, 忍 行.

[63]. Phục-chi-diệp, 復 枝 葉; No. 1(1) sđd.: Tịch Diệt, 寂 滅.

[64]. Phù-đề, 浮 提; No. 1(1) sđd.: Thiện Giác, 善 覺.

[65]. Tát-chất, 薩 質; No. 1(1) sđd.: An Hòa, 安 和.

[66]. Tát-ba-mật, 薩 波 蜜; No. 1(1) sđd.: Thiện Hữu, 善 友.

[67]. A-nan, 阿 難; No. 1(1) sđd.: A-nan, 阿 難.

[68]. No. 4, đoạn văn này (từ Thị giả đến A-nan) đề cập đến những người hầu cận của các đức Phật. Nhưng theo bản No. 1(1) lại đề cập đến con của các đức Phật. Ở đây, nếu đem đối chiếu hai đoạn của chủ đề này, thì chúng ta thấy có những điểm đồng dị như trên.

[69]. Tắc và Chất-hàm, 塞, và 質 含; No. 1(1) sđd.: Khiên-trà và Đề-xá, 騫 茶, và 提 舍.

[70]. A-tỷ-vụ và Tam-tham, 阿 比 務 và 三 參; No. 1(1) sđd.: A-tỳ-phù và Tam-bà-bà, 阿 毗 浮 và 三 婆 婆.

[71]. Phật-đề và Uất-đa, 佛 提 và 鬱 多; No. 1(1) sđd.: Phò-du và Uất-đa-ma, 扶 遊 và 鬱 多 摩.

[72]. Tăng-kỳ và Duy-lưu, 僧 耆 và 維 留; No. 1(1) sđd.: Tát-ni và Tì-lâu, 薩 尼 và 毗 樓.

[73]. Chuyển Luân và Uất-đa, 轉 輪 và 鬱 多; No. 1(1) sđd.: Thư-bàn-na và Uất-đa-lâu, 舒 盤 那 và 鬱 多 樓.

[74]. Chất-da-luân Ba-đạt-hòa, 質 耶 輪 và 波 達 和; No. 1(1) sđd.: Đề-xá và Bà-la-bà, 提 舍 và 婆 羅 婆.

[75]. Xá-lợi-phất-la và Ma-ha Mục-kiền-liên, 舍 利 弗 羅 và 摩 訶 目 乾 連; No. 1(1) sđd.: Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên, 舍 利 弗 và 目 乾 連 .
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 43967)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 43042)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366, Đoàn Trung Còn và Nguyễn Minh Tiến dịch
(Xem: 49039)
Có một lúc, đức Phật ở trong núi Kỳ-xà-quật gần thành Vương Xá, cùng với các vị đại tỳ-kheo mười hai ngàn người, đại Bồ Tát là tám mươi ngàn người.
(Xem: 39874)
Bấy giờ, đức Thế Tôn ở giữa đại chúng, vì đại chúngthuyết giảng giáo pháp nhiệm mầu, trừ sạch bốn điên đảo, khiến cho được rõ biết các pháp lành...
(Xem: 53805)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, lúc mới Chuyển pháp luân độ ông A-nhã Kiều-trần-như, đến khi thuyết pháp lần cuối cùng độ ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 36840)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng. Nếu thấy các tướng thật chẳng phải tướng tức là thấy Như Lai.
(Xem: 40834)
Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: "Về phương đông, cách đây vô số cõi Phật nhiều như số cát sông Hằng, có một thế giới tên là Tịnh Lưu Ly.
(Xem: 49744)
Lúc ấy, Bồ Tát Vô Tận Ý từ chỗ ngồi đứng dậy, vén tay áo bên vai mặt, quỳ xuống chắp tay cung kính bạch Phật rằng...
(Xem: 47338)
Thế Tôn thành đạo dĩ, tác thị tư duy: “Ly dục tịch tĩnh, thị tối vi thắng.” Trụ đại thiền định, hàng chư ma đạo. Ư Lộc dã uyển trung...
(Xem: 27760)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 25870)
Quyển Kinh Lời Vàng này nguyên danh là "Phật Giáo Thánh Kinh" do nữ Phật tử Dương Tú Hạc biên trước bằng Hán Văn (người Trung Hoa).
(Xem: 29901)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27182)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 24772)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 21330)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23234)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 23894)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22822)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 29593)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20649)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 34186)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 24691)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30049)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20232)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20415)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15148)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 23915)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
(Xem: 34085)
Tiểu Bộ Kinh - Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
(Xem: 24011)
Quy mạng Lô Xá Na, Mười phương Kim Cương Phật. Ðảnh lễ đức Di Lạc, Sẽ hạ sanh thành Phật. Nay tụng ba tựu giới, Bồ Tát đều cùng nghe.
(Xem: 29206)
Tôi nghe như vầy: Một thời Thế-tôn, châu du giáo hóa các nước đến thành Quảng-nghiêm, ở nghỉ dưới cây Nhạc-âm, cùng với tám ngàn vị đại tỳ-kheo...
(Xem: 60173)
Bồ TátVô Tận Ý Khi bấy giờ chăm chỉ đứng lên Bèn trịch vai hữu một bên Chắp tay cung kính hướng lên Phật đài
(Xem: 27630)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 68758)
Chúng sanh đây có bấy nhiêu Lắng tai nghe lấy những điều dạy răn Các ngươi trước lòng trần tục lắm Nên kiếp nầy chìm đắm sông mê
(Xem: 24544)
Một thuở nọ Thế Tôn an trụ Xá Vệ thành Kỳ Thụ viên trung Mục Liên mới đặng lục thông Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm luân.
(Xem: 26380)
Lăng-già (Lanka) là tên núi, núi này do sản xuất châu Lăng-già nên lấy tên châu mà gọi tên núi. Núi nằm tại biển Nam là chỗ ở của Dạ-xoa.
(Xem: 20830)
Lư hương xạ nhiệt, Pháp-giới mông huân. Chư Phật hải hội tất diêu văn, Tùy xứ kiết tường vân
(Xem: 20076)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phảng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 27565)
Làm người Phật tử ở đời Đêm ngày tụng niệm những lời dạy khuyên Tám điều giác ngộ kinh truyền Ghi lòng tạc dạ tinh chuyên tu hành
(Xem: 46460)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 25601)
Phụng dịch theo bản đời Đường của Ngài Thiệt Xoa Nan Đà. Tham khảo các bản dịch đời Ngụy, Tống và bản dịch Anh Ngữ của Suzuki. - Dịch Giả: Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 29280)
VIMALAKĪRTINIRDEŚA - SŪTRA - Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết - Đường Huyền Trang dịch - bản dịch Việt: Tuệ Sỹ
(Xem: 189056)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi tam-bảo
(Xem: 27444)
Thắng Man Phu nhân điển hình cho phụ nữ thực hành Bồ tát đạo bằng cung cách trang nhã, từ ái, khiêm cung. Môi trường thực hành bao gồm từ giới hạn thân thuộc...
(Xem: 31157)
Kinh Pháp Cú (Kinh Lời Vàng), The Path of Truth - Việt dịch: Hòa Thượng Thích Minh Châu - Họa sĩ: Mr. P. Wickramanayaka (vẽ theo bản tiếng Anh mà HT Thích Minh Châu dịch) - Vi tính: Tâm Tịnh
(Xem: 33180)
Tích truyện Pháp Cú - Thiền viện Viên Chiếu - Nguyên tác: "Buddhist Legends", Eugène Watson Burlingame
(Xem: 24041)
Sau 45 năm thuyết pháp, những lời giảng daỵ của Đức Phật không những không bị quên lãng, thất lạc mà còn được lưu giữ, truyền bá mãi đến ngày nay...
(Xem: 25636)
Ta Bà là chốn tạm ở thôi Cửa không mau phải hồi đầu lại Hai sáu nguyện vương tiêu tai chướng Ba ngàn hoá Phật chứng lòng thành
(Xem: 26718)
Cuộc đối thoại đầy đạo vị hứng thú dĩ nhiên được truyền tụng khắp nơi trong giới Phật giáo cũng như ngoài nhân gian. Về sau, vào thế kỷ đầu sau Tây lịch, sợ để khẩu truyền lâu ngày
(Xem: 36684)
Ở phương Ðông cách đây hơn mười căn dà sa cõi Phậtmột thế giới tên là Tịnh Lưu Ly. Ðức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai
(Xem: 27358)
Lúc Đức Phật Thích-ca chứng đắc, Chuyển bánh xe chánh pháp độ sanh, Kiều-trần-như được duyên lành, Năm anh em họ viên thành lý chân,
(Xem: 30389)
Phật Thùy Ban Niết Bàn Lược Thuyết Giáo Giới Kinh (Kinh Di Giáo) - Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0389 - Cưu Ma La Thập dịch Hán; HT. Thích Trí Quang dịch Việt
(Xem: 37329)
Một thời Ðức Phật ở nước Xá Vệ, trong vườn Cấp Cô Ðộc, cây của thái tử Kỳ Ðà, cùng với các đại Tỳ Kheo Tăng... Thích Minh Định dịch
(Xem: 23911)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Kỳ Thọ Cấp Cô Độc gần thành Xá Vệ, với đại chúng khất sĩ gồm một ngàn hai trăm năm mươi vị. Hôm ấy vào giờ khất thực, Bụt mặc áo và ôm bát đi vào thành Xá Vệ.
(Xem: 36997)
Khuyến phát Bồ Đề Tâm văn; Âm Hán Việt: Cổ Hàng Phạm Thiên Tự Sa môn Thật Hiền soạn; Dịch: Sa môn Thật Hiền chùa Phạm Thiên Cổ Hàng soạn
(Xem: 27627)
Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm Kinh - Năm trăm Danh Hiệu Phật và Bồ Tát Quán Thế Âm
(Xem: 28347)
Công Phu Khuya
(Xem: 24168)
Nói một cách vắn tắt, sự xuất hiện của Duy-ma-cật là xu hướng khẳng định vai trò tích cực của chúng đệ tử tại gia trong giáo pháp của Phật, về các mặt hành đạo cũng như hóa đạo.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant