Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Nhất Thiết Lưu Nhiếp Thủ Nhân

14 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 11953)
Kinh Nhất Thiết Lưu Nhiếp Thủ Nhân


PHẬT NÓI KINH NHẤT THIẾT LƯU NHIẾP THỦ NHÂN


Đại Chánh Tân Tu số 0031 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

Hán dịch: Ðời Hậu Hán, Sa môn An Thế Cao

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

--- o0o ---


Nghe như vầy:

Một thời Phật tại Pháp Nghị tư duy, Lưu quốc tụ hội, nước Câu Lưu. Bấy giờ Phật bảo các Tỳ kheo; các Tỳ kheo thưa: “Xin vâng”, rồi các Tỳ kheo theo đức Phật để nghe dạy. Ðức Phật bèn dạy:

-Người có trí, có kiến, này Tỳ kheo, nên các lậu được tận diệt, chứ không phải người không có trí, có kiến mà các lậu tận diệt được.

Này Tỳ kheo, sao gọi là người có trí, có kiến mới khiến các lậu được tận diệt, chứ người không trí, không kiến thì các lậu không thể tận diệt được? Ðó là do có chánh tư duy (bổn quán) hay không chánh tư duy (phi bổn quán) mà thôi. Nếu không chánh tư duy thì dục lậu chưa sanh sẽ phát sanh, dục lậu đã sanh liền tăng trưởng; hữu lậu (hữu lưu) và vô minh lậu chưa sanh thì liền sanh, hữu lậuvô minh lậu đã sanh liền tăng trưởng. Nhưng người ngu si, này Tỳ kheo, kẻ thế gian không nghe (chánh pháp), không thấy bậc trí tuệ, cũng không theo bậc trí tuệ để nghe chánh pháp, cũng không theo bậc trí tuệ để được giáo giới, cũng không theo bậc trí tuệ để được phân biệt hiểu rõ. Do đó mới không có chánh tư duy (phi bổn niệm) nên khiến cho dục lậu chư sanh liền sanh, dục lậu đã sanh liền tăng trưởng; hữu lậuvô minh lậu chư sanh liền sanh, đã sanh liền tăng trưởng. Do không biết, không hiểu cho nên pháp không đáng ghi nhớ thì lại ghi nhớ, còn pháp nên ghi nhớ thì lại không ghi nhớ. Do vì pháp đáng ghi nhớ mà không ghi nhớ, pháp không đáng ghi nhớ mà lại ghi nhớ, nên ái lậu chưa sanh liền sanh, ái lậu đã sanh liền tăng trưởng; chưa sanh hữu lậu, vô minh lậu liền sanh; đã sanh hữu lậu, vô minh lậu liền tăng trưởng. Người nghe đệ tử Tỳ kheo đạo đức, nhờ gặp được bậc trí tuệ, theo bậc trí tuệ để thọ giáo, cũng theo bậc trí tuệ để phân biệt hiểu rõ, liền biết pháp như thật. Nếu không chánh tư duy (phi bổn niệm) thì ái lưu (dục lậu) chưa sanh liền sanh, ái lưu đã sanh liền tăng trưởng, chưa sanh hữu lậu, vô minh lậu liền sanh; đã sanh hữu lậu, vô minh lậu liền tăng trưởng. Nếu có chánh tư duy (bổn niệm) thì dục lậu chưa sanh liền không sanh, đã sanh liền xả bỏ. Chưa sanh hữu lậu, vô minh lậu thì không sanh, đã sanh liền xả bỏ. Nếu biết như thật như vậy thì đối với pháp không nên ghi nhớ liền không ghi nhớ, đối với pháp nên ghi nhớ liền ghi nhớ. Nhờ đối với pháp không nên ghi nhớ thì không ghi nhớ, pháp nên ghi nhớ thì ghi nhớ nên khiến cho dục lậu chưa sanh liền không sanh, đã sanh liền xả bỏ, hữu lậu, vô minh lậu chưa sanh thì không sanh, đã sanh liền xả bỏ.

Này Tỳ kheo, có bảy pháp đoạn trừ lậu, phiền não nóng bức và ư sầu. Những gì là bảy? Này Tỳ kheo, hữu lậu được đoạn bởi kiến, hữu lậu được đoạn bởi nhiếp thủ, hữu lậu được đoạn bởi xa lìa, hữu lậu được đoạn bởi dụng, hữu lậu được đoạn bởi nhẫn, hữu lậu được đoạn bởi hiểu, hữu lậu được đoạn bởi ghi nhớ.

Này Tỳ kheo, thế nào là hữu lậu được đoạn bởi kiến? Hãy lắng nghe, này Tỳ kheo, kẻ thế gian ngu si không nghe chánh pháp, không gặp bậc hiền giả, cũng không theo hiền giả để được khai mở, cũng không theo bậc hiền giả để được giáo giới khai mở, do đó đối với pháp không nên ghi nhớ: “Ta có đời trước chăng? Ta không có đời trước chăng? Ðời trước ta làm những gì? Ðời trước ta như thế nào? Ta sẽ có đời vị lai chăng? Ta sẽ không có đời vị lai chăng? Ðời vị lai ta sẽ như thế nào? Ðời vị lai ta sẽ làm gì? Tự nghi thân ta là gì? Con người từ đâu mà đến, rồi sẽ đi về đâu? Cốt lõi của vấn đề này là thế nào?”. Do không chánh tư duy như vậy, trong sáu tà kiến phát sanh, theo đó một tà kiến khởi lên cho rằng: “Quả thật có thân (ngã) này”, “Quả thật không có thân này”. Ðó là nghi sanh, sanh ra kế chấp “thân (ngã)thấy là thân”. Như vậy nghi sanh, sanh ra kế chấp: “Thân là ngã của ta”, hoặc sanh nghi: “Thân sanh tương kiến thân”, hoặc sanh nghi: “Cái không phải thân thấy là thân”, hoặc sanh nghi chấp rằng: “Ðó chính là thân của chính ngã, nó có thể biết, có thể nói, có thể hành động, có thể cảm thọ, có thể nâng lên, có thể đứng dậy, nơi nơi, chốn chốn đã tạo tác, hành động thiện ácthọ tội, nó chấm dứt không sanh hay cũng sanh thì cũng vậy”.


Này Tỳ kheo, bị kiết sử buộc chặt, bị kiết sử (tà kiến) nghi trói buộc, bị ác nghi bất chánh kiến lay động. Này Tỳ kheo, người thế gian không nghe chánh pháp, do đó khổ tập hiện hữu, do đó sự sanh phát hiện. Bậc đa văn Tỳ kheo dạy (đạo) đệ tử: “Ðây là khổ phải nên biết, đây là tập phải nên biết, đây là tận diệt phải nên biết, đây là khổ diệt hành linh diệt phải nên biết”. Biết như vậy rồi, thấy như vậy, ba kiết tận trừ:

1. Thân kiết

2. Nghi kiết

3. Hạnh nguyện kiết.

Do vì ba kiết đã tận trừ liền theo đạo được chuyên nhất, không còn đọa vào ác xứ nữa, liền được thoát khỏi thế gian, ở nhân gian hay thiên thượng không quá bảy lần thọ sanh nữa. Sau bảy lần thọ sanh liền hết khổ. Nếu Tỳ kheo không tri, không kiến liền sanh dục lậu, phiền não ưu sầu. Nếu có tri kiến thì đoạn trừ dục lậu, phiền não ưu sầu, làm cho không còn hiện hữu nữa. Ðó là Tỳ kheo nhờ Kiến mà đoạn trừ hữu lậu.

Này Tỳ kheo, sao gọi là hữu lậu đoạn được nhờ thủ? Ðó la đa văn Tỳ kheo thực hành khi mắt thấy sắc thâu nhiếp nhãn căn để tự phòng hộ, thực hành pháp quán (ố lộ) bất tịnh, nương theo chánh tư duy. Này Tỳ kheo, nếu không phòng hộ nhãn căn, thực hành pháp quán bất tịnh nương theo chánh tư duy thì liền sanh hữu lậu buồn lo, nếu có thâu nhiếp nhãn căn, đình chỉ tâm, nhờ chánh tư duy quán bất tịnh thì phiền não, sầu lo sẽ không có. Ðó là Tỳ kheo đoạn được hữu lậu nhờ Thủ. Ðối với tai, mũi, miệng, thân, ý cũng lại như vậy.

Này Tỳ kheo, sao gọi là hữu lậu đoạn được nhờ Tỵ (tránh né)? Ðó là đa văn Tỳ kheo thực hành cần phải tự phòng thủ, tránh né voi dữ, ngựa chứng, trâu điên, chó dữ, rắn độc, đường hầm hiểm, cây độc, khe độc, nguy hiểm, ao sâu, núi dốc, nơi bất an, sông ngòi, khe sâu, ác tri thức, bạn ác, kẻ mang điều ác, kẻ thọ nhận điều ác, chỗ ác, ngọa cụ để chỗ ác. Này hiền giả, những thứ đó làm cho người không nghi ngờ khiến cho nghi ngờ. Như vậy, Tỳ kheo cần phải tránh né những chỗ như trên đã nói, nếu không xa lìa liền sanh phiền não ưu sầu, nếu xa lìa thì phiền não ưu sầu sẽ không còn nữa. Ðó gọi là Tỳ kheo đoạn trừ hữu lậu nhờ Tỵ.

Sao gọi là Tỳ kheo đoạn trừ hữu lậu nhờ dụng? Ðó là đa văn Tỳ kheo thực hành khi dùng y phục chẳng phải để khoe đẹp, không phải để vui thích, không phải để tham đắm, không phải để trang sức, nhưng chỉ vì khiến cho thân không bị muỗi mòng, gió, nắng, các loại độc tấn công, sanh ra loạn ý, nên cần phải tự phòng thủ. Khi ăn không vì để vui chơi, không do tham lam, không vì để mạnh mẽ, không vì để cho đoan chánh, nhưng chỉ vì để cho thân được tồn tạitu hành. Nhờ sự cúng dường để đoạn trừ bệnh cũ không tái phát, bệnh mới không sanh, được hết bệnh, không tạo tội, có sức, an ổn tu hành. Khi thọ dụng ngọa cụ, giường, chiếu không phải để khoe khoang, không phải để vui thích, không phải để tham đắm, không phải để trang sức, nhưng chỉ vì khiến cho thân này khỏi bị mệt mỏi, đau khổ kịch liệt. Khi thọ dụng thuốc thang không phải để khoe khoang, không phải để vui thích, không phải để tham đắm, không phải để trang sức, nhưng mục đích chỉ để khiến cho thân này chấm dứt được những thống khổ kịch liệt, đau đớn dữ dội, thật khó chịu, nhờ thuốc thang đó mà được cứu thoát. Nếu Tỳ kheo không dùng nó thì liền sanh phiền não ưu sầu, nếu dùng nó thì phiền não ưu sầu sẽ không sanh nữa. Này Tỳ kheo, đó gọi là đoạn trừ hữu lậu nhờ Dụng.

Này Tỳ kheo, sao gọi là hữu lậu đoạn được nhờ Nhẫn? Ðó là đa văn Tỳ kheo khi tu hành phát hạnh tinh tấn để đoạn trừ ác pháp, thọ pháp thanh tịnh, nỗ lực, ra sức, kiên trì phương tiện tinh tấn, không bỏ pháp thanh tịnh. Thà cho thân này da thịt, xương khô kiệt, nát tan cho đến tủy, mỡ, da đều tiêu hủy tất cả, nhưng sự phát tâm tinh tấn vẫn còn. Hãy khiến cho ta kiên tâm can đảm, phương tiện tinh tấn, chừng nào chưa đạt được mục đích mong muốn thì không được nửa chừng mà bỏ tinh tấn. Này Tỳ kheo, hãy nên chịu đựng sự nóng lạnh, đói khát, muỗi mòng, gió nóng, mặt trời bức bách, nghe lời độc ác không thể nói được, người có ý kiêu mạn đối với mình cũng có thể nhẫn chịu được. Nếu thân bị ngộ độc đau đớn, nhức nhối kịch liệt, bất khả ý, không sao chịu nỗi nhưng vẫn nhẫn được. Nếu Tỳ kheo không nhẫn nại thì sanh ra phiền não, sầu lo; nếu nhẫn chịu được thì phiền não ưu sầu sẽ không sanh nữa. Này Tỳ kheo, đó gọi là hữu lậu được đoạn trừ nhờ Nhẫn nại.

Này Tỳ kheo, sao gọi là hữu lậu đoạn được nhờ Hiểu? Hãy nghe! Này các Tỳ kheo, Tỳ kheo đã sanh dục mà không đoạn trừ, không xả ly, đã sanh sân hận mà không đoạn trừ, không xả ly, đã sanh sát sanh, dối láo, trộm cắp mà không đoạn trừ, không xả ly. Này các Tỳ kheo, nếu không hiểu (xả ly) thì sanh ra phiền não, ưu sầu, nếu đã hiểu mà xả ly thì phiền não ưu sầu sẽ không sanh ra nữa. Ðó gọi là các Tỳ kheo đoạn trừ hữu lậu nhờ Hiểu.

Sao gọi là Tỳ kheo đoạn trừ hữu lậu nhờ Hành tăng (tư duy)? Hãy lắng nghe, này các Tỳ kheo, Tỳ kheo hãy tư duy về giác chi thứ nhất là Niệm. Hãy ngồi một mình, nương vào sự xa lìa pháp ác, phân biệt giác chi cũng như vậy, tinh tấn giác chi cũng như vậy, hỷ giác chi cũng như vậy, ý giác chi cũng như vậy, định giác chi cũng như vậy, cho đến quán sát về khước (xả) giác chi cũng như vậy. Nếu các Tỳ kheo không thực hành pháp tư duy thì liền sanh phiền não, sầu lo. Nếu có thực hành tư duy thì không sanh phiền não ưu sầu nữa. Ðó gọi là các Tỳ kheo đoạn trừ hữu lậu nhờ Hành tăng (tư duy).

Này Tỳ kheo, nếu hữu lậu nhờ Kiến để được đoạn trừ thì hãy dùng Kiến để đoạn. Nếu hữu lậu nhờ Thủ nhiếp để được đoạn trừ thì hãy dùng Thủ nhiếp để đoạn. Nếu hữu lậu nhờ Tỵ để được đoạn trừ thì hãy dùng Tỵ để đoạn. Nếu hữu lậu nhờ Dụng để được đoạn trừ thì hãy dùng Dụng để đoạn. Nếu hữu lậu nhờ Nhẫn để được đoạn trừ thì hãy dùng Nhẫn để đoạn. Nếu hữu lậu nhờ Hiểu để được đoạn trừ thì hãy dùng Hiểu để đoạn. Nếu hữu lậu nhờ Hành tăng để được đoạn trừ thì hãy dùng Hành tăng để đoạn. Ðó gọi là các Tỳ kheo đoạn trừ tất cả lậu, đã hoại diệt sự ác ái của thế gian, đã được thoát khỏi thế gian, xả bỏ sự trói buộc, được chỗ ách yếu lìa khổ.

Ðức Phật thuyết như vậy, các Tỳ kheo nghe đức Phật dạy, hoan hỷ thực hành pháp vượt khỏi thế gian xong, liền đắc đạo

PHẬT NÓI KINH NHẤT THIẾT LƯU NHIẾP THỦ NHÂN

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 30482)
Bụt là bậc có Nhất Thiết Trí, bản chất của Người là đại nhân từ, vì thương xót nhân gian cho nên mới xuất hiện trên cuộc đời này để mở bày đạo nghĩa, giải cứu cho con người.
(Xem: 27715)
Thế Tôn, nếu có người nghe được kinh này mà có lòng tin thanh tịnhđạt được cái thấy chân thật thì nên biết người ấy đã thực hiện được công đức hiếm có vào bậc nhất.
(Xem: 30022)
Để tìm về tính nguyên thủy ấy, lẽ tự nhiên là ta cần khảo sát cẩn trọng bản kinh được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật. Đó là Kinh Như Lai Thuyết...
(Xem: 23031)
Kinh Điềm Lành (Mangala Sutta) -- còn có tên là kinh Phước Đức hay kinh Hạnh Phúc -- là bài kinh số 5 trong Tiểu Tụng (Khuddakapātha), thuộc Tiểu Bộ (Khuddhaka Nikāya).
(Xem: 30670)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31282)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37168)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32321)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 27147)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại núi Bồ-đạt-lạt-ca, trong cung điện Quán Tự Tại, trong đó có nhiều cây báu như cây ta-la, đam-ma-la...
(Xem: 30111)
Nếu có tỳ-kheo chân thật muốn học đạo, hãy vứt bỏ những thứ trang sức choáng lộn, chẳng cầu danh văn, chất phác, giữ lòng chân thành...
(Xem: 23140)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta. Này các Tỳ-khưu, người nói Pháp không tranh luận bất cứ với một ai ở đời.
(Xem: 22335)
Thưa Ðại vương, chính phải có giao tiếp mới biết được sự thanh liêm của một người, và như vậy, phải trong một thời gian dài...
(Xem: 30924)
Phật dạy: “Nếu vị a-xà-lê cùng người tu hành muốn tu hạnh Bồ-đề phần pháp và các món thành tựu, nên đối với pháp của Quán Tự Tại Bồ-tát mà tu tập.
(Xem: 41535)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 0159 - Hán dịch: Đường Bát Nhã; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 24975)
Ai khôn ngoan muốn cầu hạnh phúcước mong sống với an lành Phải tài năng, ngay thẳng, công minh...
(Xem: 23691)
Tung rải từ tâm khắp vũ trụ Mở rộng lòng thương không giới hạn Tầng trên, phía dưới và khoảng giữa... HT Thích Thiện Châu dịch
(Xem: 25331)
Ta hãy đem lòng từ bi không giới hạn của ta mà bao trùm cả thế gian và muôn loài, từ trên xuống dưới, từ trái sang phải... HT Thích Nhất Hạnh dịch
(Xem: 58736)
Thông đạt tiếng nói các chúng sanh, khai thị thật tướng vũ trụ. Vượt khỏi các pháp thế gian. Tâm thường nguyện độ thoát chúng sanh. Đối với vạn vật tùy ý tự tại.
(Xem: 20901)
Như Lai sẽ nhập niết-bàn trong vòng ba tháng nữa, nên các tỷ-khưu, tỷ-khưu ni cũng như vô số các loài hữu tình đến để cung kính đảnh lễ.
(Xem: 28940)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ Phật ở thành Vương Xá, trong núi Kỳ Xà Quật, cùng với các vị Đại Tỳ Khưu, hai vạn tám ngàn người, đều là những bậc chỗ sở tát đã xong, phạm hạnh đã lập...
(Xem: 28624)
Tất cả nam nữthế gian giàu sang hay nghèo hèn, chịu khổ vô cùng hoặc hưởng phước vô lượng đều do nhân duyên từ đời trước mà cảm quả báo.
(Xem: 23954)
Để có thể chấp nhận cả cái tốt lẫn cái xấu một cách tự tại, bạn cần phải nắm chắc trong tay một nguyên lí đó là tính cách “vô phân biệt” (không hai, không khác) của Bát nhã.
(Xem: 24844)
Đông-Tấn, Sa-Môn Thích-Pháp-Hiển dịch chữ Phạn ra chữ Hán, HT Thích-Tâm-Châu dịch chữ Hán ra chữ Việt
(Xem: 61834)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh.
(Xem: 22120)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết Bàn (Nirvana, Nibbana).
(Xem: 23974)
Tôi nghe như vầy, một thuở nọ đức Phậttịnh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá, xứ Ma Kiệt Ðà, cùng với năm trăm vị đại tỳ kheo, đều là các bậc A La Hán...
(Xem: 41226)
Khi ấy đức Thế tôn vì các Tỳ-khưu mà nói Pháp Tứ Đế, thời các Tỳ-khưu đầy đủ Tam minhLục thần thông. Bấy giờ các Tỳ-khưu khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân.
(Xem: 33210)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 25789)
Cái nhân bồ tát hạnh của Phật làm cho sự sống lâu của Phật đã không bao giờ hết. Phật ở bên ta... HT Thích Trí Quang dịch
(Xem: 31334)
Kinh Tăng Chi Bộ là một bộ kinh được sắp theo pháp số, từ một pháp đến mười một pháp, phân thành 11 chương (nipàtas). Mỗi chương lại chia thành nhiều phẩm (vaggas).
(Xem: 38589)
Hai mươi tám phẩm kinh Pháp-Hoa chan chứa tâm hạnh của Phật và đại Bồ-Tát, trải dài những con đường phương tiện giáo hóa thênh thang ngõ hầu mang chúng sanh từ phàm đến thánh...
(Xem: 21451)
Những ai hữu duyên đọc được kinh này, sẽ có chính kiến thấy được cuộc sống hiện tại là tấm gương phản chiếu quá khứ vị lai. Đúng như lời Phật dạy, mình không cần phải nhờ thầy xem bói mà chính mình là vị thầy bái cho mình hơn ai hết.
(Xem: 44276)
Lễ quy y theo Phật giáo là một buổi lễ tổ chức đơn giản cho cá nhân hay tập thể, xin gia nhập vào hàng ngũ Phật tử. Lễ này có thể tổ chức tại gia, chùa chiền...
(Xem: 42227)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 45786)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32128)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 23971)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo, vì danh từ và nghĩa lý của ngoại đạo cũng tựa như lời Phật, xem thì ngoại đạo với Phật hai ý khác hẳn...
(Xem: 33932)
Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá một pháp. Các ngươi sẽ thành tựu thần thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn... TT Thích Đức Thắng dịch
(Xem: 27693)
Tăng Nhất A-hàm là so sánh sự mạch lạc của pháp rồi dùng số mà xếp thứ tự. Số tận cùng là mười, thêm vào một, nên gọi là Tăng Nhất... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 22085)
Thiện nam tử, nếu có ngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì không phải Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu khôngngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì gọi là Phật ngữ.
(Xem: 21448)
Sa môn hỏi Phật, lành là gì? lớn nhất là gì? Phật nói, đi theo đường đạo, giữ đúng lẽ chân, là lành. Chí nguyện phù hợp với đạo là lớn nhất.
(Xem: 19511)
Phật dạy: Người có nhiều tội lỗi, không biết tự ăn năn sửa đổi, tội ấy chồng chất vào mình, chẳng khác gì nước dồn về biển, càng ngày càng nhiều... HT Thích Thanh Cát
(Xem: 19478)
Đức Phật dạy: "Những người xuất gia làm Sa-môn đoạn dục, khứ ái, nhận biết nguồn tâm của mình, thông đạt đạo lý thâm sâu của Phật và tỏ ngộ pháp Vô-vi.
(Xem: 19844)
Sau khi thành đạo, đức Thế-Tôn suy nghĩ rằng: “Lìa bỏ sự ham muốn, an- trụ trong vẳng-lặng, là điều cao hơn cả!”. Ngài an-trụ trong đại-định và hàng-phục các ma-đạo.
(Xem: 19262)
Đức Thế-Tôn nói qua về hành-tướng của nhân-duyên rằng: Do duyên kia sinh ra quả, nên dù Như-Lai xuất-hiện ra đời hay không xuất-hiện ra đời đi nữa, tính của mọi pháp (sự-vật) vẫn thường-trụ.
(Xem: 27543)
Nội dung kinh này thuyết minh về Như lai tạng, quả đức của Phật. Nói rõ hành giả đoạn trừ phiền não nào, để chứng đắc Nhị thừa quả... HT Thích Đức Niệm dịch
(Xem: 27937)
Sa-môn Gotama từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc của tất cả chúng sanh và loài hữu tình. - Này các Tỷ-kheo, đó là lời tán thán Như Lai của kẻ phàm phu.
(Xem: 26734)
Tác phẩm của Tiến sĩ Thích Minh Châu có nhiều khám phá đáng ngạc nhiên. Ông đã chứng minh rằng bản kinh A-hàm (Àgama) bằng chữ Hán và bản kinh bộ Pàli (Pàli Nikàya) này có rất nhiều điểm tương đồng và cũng khá nhiều dị biệt.
(Xem: 22693)
đệ tử Phật thì nên hết lòng, ngày cũng như đêm, đọc tụngquán niệm về tám điều mà các bậc đại nhân đã giác ngộ... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 30350)
Trong thành Vương Xávị cư sĩ tên Hiền Hộ là bực thượng thủ năm trăm vị cư sĩ, các vị nầy đều thọ trì năm giới gìn giữ từ cử chỉ nhỏ nhặt...
(Xem: 44251)
Kinh BÁCH DỤ gồm gần một trăm câu truyện ngụ ngôn đầy sinh độngsúc tích ẩn tàng các giá trị triết lý giáo dục nhân sinh do Đức Phật kể ra để dạy về giáo lýgiáo pháp.
(Xem: 35546)
KINH PHÁP CÚ là cuốn Kinh chọn lọc những lời dạy của đức Phật Thích Ca Mâu Ni khi còn tại thế. Suốt trong 45 năm thuyết pháp, đức Phật đã nói rất nhiều Pháp ngữ...
(Xem: 20710)
Như Lai nơi nhân địa tu theo tự tánh Viên Giác, chiếu soi bản thể của tự tánh vốn tịch diệt, biết rõ thân tâm thế giới như hoa đốm trên không... Thích Hằng Đạt dịch
(Xem: 24782)
Nguyên văn chữ Hán của Kinh Viên Giác chỉ có hơn mười ba ngàn chữ mà bao gồm tất cả giáo pháp đốn tiệm của thượng cănhạ căn... HT Thích Duy Lực dịch
(Xem: 37940)
Kinh Hoa Nghiêmbộ kinh đại thừa, là vua trong các kinh, với nội dung siêu việt tuyệt luân hùng vĩ, tráng lệ nguy nga, thể hiện pháp thân, tư tưởngtâm nguyện của Phật.
(Xem: 21853)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0365 - Hán dịch: Lương Da Xá; Việt dịch HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 32625)
Hết thảy nội dung được đề cập đến trong tập sách này đều được thể hiện một cách vô cùng sáng tạo, linh hoạt, với rất nhiều ví dụ thích hợp luôn luôn đi kèm theo mỗi vấn đề...
(Xem: 26240)
Bốn tâm vô lượng là cõi nước thanh tịnh của Bồ Tát, khi Bồ Tát thành Phật, những chúng sinh thành tựu các đức từ, bi, hỷ, xả sinh về nước ấy... Đoàn Trung Còn, Nguyễn Minh Tiến
(Xem: 28949)
Nhất thời, Phật tại Tỳ-da-ly, Am-la thọ viên, dữ đại tỳ-kheo chúng bát thiên nhân câu. Bồ Tát tam vạn nhị thiên, chúng sở tri thức.
(Xem: 43175)
Đây là một bản kinh Phật đặc sắc, nêu bật lên ý nghĩa nhân quả bằng những truyện tích nhân duyên rất sống động, được thuật lại với nhiều chi tiết thú vị.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant