Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Tệ Ma Thí Mục Liên

15 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 13269)
Kinh Tệ Ma Thí Mục Liên


PHẬT NÓI KINH TỆ MA THÍ MỤC LIÊN


 Đại Chánh Tân Tu, Bộ A Hàm, Kinh số 0067 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

 Hán dịch: Ðời Ngô Nguyệt Chi, Ưu bà tắc Chi Khiêm.

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

--- o0o ---


 

Nghe như vầy: Một thời đức Phật đức Phật giáo hóa trong vườn nai, làng xóm Khủng Cụ, núi Diệu Hoa, nước Phàn Kỳ.

Bấy giờ hiền giả Ðại Mục Kiền Liên đang kinh hành trong đêm tối. Trong lúc tôn giả đang kinh hành trên khoảng đất trống, bấy giờ Tệ Ma đi đến chỗ Ngài, tự hóa hình nhỏ xíu, chui vào trong bụng của tôn giả Mục Liên. Lúc đó hiền giả Ðại Mục Kiền Liên nghĩ như vầy: “Trong bụng của ta tại sao lại có tiếng ầm ầm như sấm, giống như người đang đói mà gánh phải vật nặng. Vậy ta nên vào trong thất nhập chánh thọ tam muội quán sát để tìm căn nguyên”. Khi ấy tôn giả Mục Liên liền vào trong thất nhập tam muội để quán thân, tôn giả liền thấy Tệ Ma hóa hình nhỏ xíu chui vào bụng mình. Tôn giả liền nói rằng: “Này Tệ Ma, hãy đi ra đừng có quấy nhiễu đức Như laiđệ tử của Ngài, để rồi mãi mãi gánh lấy khổ đau, bất an, đọa vào ác xứ”.

Khi ấy trong tâm ma nghĩ rằng: “Nay Sa môn này chưa thấy ta, cũng chưa biết ta, thế mà dối nói rằng này Tệ Ma hãy đi ra, hãy đi ra, chớ có quấy nhiễu đức Như laiđệ tử của Ngài, sẽ mãi mãi bị khổ thống, bất an. Ngay như thầy của ông là Thế tôn Ðại thánh còn không thể biết được ta, huống chi là đệ tử của ông ta mà biết được ta sao?”.

Tôn giả Mục Liên lại nói với Tệ Ma: “Ta còn biết trong ý của ngươi nghĩ rằng Ðại sư của ông ta là bậc Ðại thánh còn không thể biết được ta huống chi là đệ tử mà biết được ta”.

Lúc ấy Tệ Ma liền sợ hãi nghĩ rằng: “Nay Sa môn này đã biết ta rồi”. Nó liền hóa hình nhỏ xíu nhảy ra đứng ở phía trước. Tôn giả Mục Liên bảo với ma: “Vào thời quá khứ lâu xa về trước, lúc đức Phật Câu Lâu Tần xuất thế, khi đó ta đã từng làm ma tên là Sân hận. Ta có một người em gái tên là Quỷ Hắc. Lúc đó mày là con trai của nó. Như vậy nên biết rằng mày là con của em gái ta”.

Bấy giờ đức Phật xuất hiệnthế gian hiệu là Câu Lâu Tần Như lai, bậc chí chơn Ðẳng chánh giác. Ngài có hai người đệ tử, người thứ nhất tên là Hồng Âm, người thứ hai tên là Tri Tưởng, là bậc tối tôn, nhân hiền thứ nhất không ai bằng.

Sao gọi hiền giả ấy là Hồng Âm? Vì tôn giả đó lúc sống trên trời Phạm thiên, tiếng nói của Ngài to lớn vang rền cả ba ngàn đại thiên thế giới.

Còn sao gọi hiền giả kia là Tri Tưởng? Vì tôn giả ấy hoặc nương ở chỗ thanh vắng, ngồi dưới gốc cây nơi đồng trống hay ở trong núi, liền nhập tam muội chánh thọ Như kỳ tượng. Lúc ấy có những người đang chăn dê, chăn trâu, người lấy củi gánh cỏ, cày ruộng, người đi đường, họ vào trong núi thấy Ngài nhập định như vậy, đồng bảo nhau rằng: “Vị Sa môn này ngồi ở đây mà chết, bọn chúng ta hãy cùng nhau chất củi và cỏ lên để hỏa thiêu”. Như lời nói ấy, họ cùng nhau hỏa thiêu ngài (trà tỳ).

Tỳ kheo Tri Tưởng từ tam muội đứng dậy, đập phủi y phục, dũ các tro bụi. Khi sửa lại y phục xong, tôn giả ôm bát vào thành, quốc ấp làng xóm để khất thực. Những người chăn trâu dê, lấy củi gánh cỏ đều rất kinh ngạc, nói với nhau rằng: “Chúng ta ở chỗ đồng trống vắng vẻ, thấy Tỳ kheo này ngồi dưới gốc cây mà chẳng còn hơi thở cho là đã chết nên cùng nhau chất củi, cỏ khô để hỏa thiêu ngài. Ngày nay vì vậy gọi Tỳ kheo Tri Tưởng là Tưởng Thức.

Bấy giờ ma Sân hận tự suy nghĩ: “Bọn Sa môn này tự cho là trì giới, vắng lặng không nói mà hành tư duy. Giống như con chó, con mèo suy nghĩ cách để bắt con chuột nên nó im lặng bất động, chờ con chuột ra là bắt. Sự thiền tư của Sa môn này cũng lại như vậy.

Giống như con hạc già muốn bắt con cá, nó im lặng không có tiếng động, trầm tư, chờ con cá ra là nó nuốt. Các Sa môn này cũng lại như vậy, trầm tư suy nghĩ về mục đích mong cầu.

Giống như con lừa trong ngày mang nặng, cho đến buổi tối mệt mõi, đói khát, nó chìm đắm trong suy nghĩ muốn được ăn uống. Các Sa môn này cũng lại như vậy.

Bấy giờ trong tâm của suy nghĩ: “Ta nên giáo hóa các trưởng giả Phạm chí ở trong nước này, đánh đập chưởi mắng, làm cho y rách, bát bể, đầu vỡ, các đạo nhơn, Sa môn giữ giới này, làm cho họ sanh tâm sân hận. Ta nhờ đó tìm được phương tiện”. Như điều suy nghĩ, ma liền xúi dục các trưởng giả Phạm chí đánh đập mắng chửi, đập bể bát, đánh vỡ đầu, xé rách y phục các Sa môn trì giới phụng pháp này. Các Sa môn này giống như con mèo bắt chuột, như con hạc bắt cá, giống như chim Chí kiêu đứng ở giữa cây để bắt chuột, các Sa môn ngồi thiền cũng lại như vậy, in như con lừa đói mệt mỏi.

Khi ấy các Tỳ kheo đều bị hủy nhục, cúi đầu đi thẳng đến chỗ đức Phật Câu Lâu Tần. Bấy giờ đức Phậtbốn chúng Thiên long quỷ thần nói rộng về kinh đạo, thấy các Tỳ kheo bị hủy nhục đi đến, Ngài bảo các Tỳ kheo : “Nay ma Sân hận đã xúi dục các trưởng giả Phạm chí ở trong nước đánh đập, mắng nhiếc, đánh bể đầu, đập bể bát, xé rách y của các Sa môn trì giới phụng pháp, làm cho tâm họ tức giận, khởi ý sân hận. Nhờ nhân duyên đó ma tìm được phương tiện làm cho những vị ấy không thành đạo.

Này các đệ tử, đối với trường hợp như vậy hãy nên thực hành bốn thứ bình đẳng: từ, bi, hỷ và hộ; không ôm lòng oán kết; không tâm sân hận; rộng lớn không hạn lượng; an lạc vô biên biến khắp mười phương. Với tâm như vậy dù ma có tìm phương tiện để phá hoại cũng không thể được.

Các Tỳ kheo vâng lời đức Phật dạy, ở một cách an nhàn nơi đồng trống, một lòng thiền định tư duy, thực hành bốn đẳng tâm, ý không tăng giảm. Bấy giờ ma sân hận tuy mong muốn được những tiện lợi nơi các Sa môn trì giới phụng pháp nhưng vĩnh viễn không thể được. Khi ấy những trưởng giả Phạm chí nghe lời ma xúi dục, hủy nhục Sa môn trì giới phụng pháp, sau khi mạng chung đều bị đọa vào đường ác, bị tra tấn khổ não, ở trong địa ngục thọ lãnh hóa thân của mình. Giống như cây lớn, bóng nó tỏa ra một khoảng đất trống to lớn. Ở trên mặt đất địa ngục như sắt đốt cháy, lõa hình, lịm mình vào đó. Họ đều bảo nhau rằng: “Chúng ta bạc phước, thọ lấy tai ương tệ ác hung bạo này là do chúng ta hủy nhục, mắng nhiếc Sa môn phụng pháp trì giới, vì vậy chúng ta mới vào đây. Than ôi! Không thể thấy được Sa môn phụng pháp trì giới, muốn cầu phương tiện nhân duyên để tương kiến, vì đã tự tạo điều này phải tự thọ lấy tai ương. Vì nghe theo ma xúi dục nên mới không thể che chở thân mình”.

Bấy giờ trong tâm của ma Sân hận nghĩ rằng: “Ta nhờ phương tiện này để tìm được sự tiện lợi nơi các Sa môn trì giới, nhưng hoàn toàn không thể được. Bây giờ ta phải biến hình xúi dục các trưởng giả Phạm chí rằng các ngươi hãy cúng dường phụng sự Sa môn trì giới, dùng áo quần, cơm ăn, giường nằm, thuốc men, khiến cho vị ấy tham sự cúng dường, nhờ nhân duyên đó ta mới có cơ hội”. Liền như mưu kế ấy, ma liền xúi các trưởng giả Phạm chí trong nước đến giữa ngã tư đường, nếu ở ngã tư đường thấy các Sa môn đạo nhân trì giới hãy trải tóc trên đất để các vị ấy đi qua và tán thán rằng: “Các ngài là những vị Sa môn trì giới siêng năng tu thân, khó thấy khó gặp, xin các ngài hãy đạp lên tóc của tôi để tôi mãi mãi được vô lượng phước”.

Hoặc có trưởng giả Phạm chí mang y phục đến chỗ các Sa môn trì giới đảnh lễ, quỳ xuống thưa rằng: “Xin các ngài thương xót chúng con nhận lấy y phục này”.

Hoặc họ mang đầy thức ăn đi đến tinh xá hoặc họ đến ngã tư, đầu các ngõ tắt trong làng dâng lên để cúng dường các Sa môn trì giới, thưa rằng: “Các ngài thật khó gặp khó thấy, xin các ngài hãy nhận vật cúng dường này để chúng con mãi mãi được phước vô lượng”.

Hoặc họ bồng các ngài, dìu các ngài, cõng các ngài vào nhà họ, mời ngồi trên giường đẹp, rồi họ mang ra các thứ phạn thực, y phục, cà sa, vàng bạc bảy báu để ở phía trước, quỳ mà thưa rằng: “Ngài là vị Sa môn trì giới khó gặp khó thấy, xin ngài hãy thọ nhận những vật cúng dường này. Xin các ngài vì lòng thương xót tự ý thọ dụng để con mãi mãi được vô lượng phước”.

Lúc đó, đức Phật Câu Lâu Tần vì bốn chúng chư thiên, long, thần thấy các đạo sĩ Sa môn trì giới được các trưởng giả Phạm chí đến gặp, cúng dường cung kính vô lượng. Ngài bảo các Tỳ kheo: “Nay ma sân hận xúi dục các trưởng giả Phạm chí cúng dường Sa môn đạo sĩ trì giới các thứ y phục, ẩm thực, ngọa cụ, thuốc men, tùy ý muốn gì cũng cúng dường đủ. Nhờ nhân duyên đó ma có cơ hội phá hoại thiện tâm vị ấy, làm cho không thể đắc đạo. Các ngươi hãy nên ở nơi núi non, đồng trống vắng vẻ suy niệm về sự vô thường của vạn vật. Tuy được áo cơm nhưng đừng tham đắm, phải quán thấy nó là khổ, không, phi thân. Ma tuy tìm cơ hội để phá hoại nhưng rốt cuộc vẫn không được.

Các Tỳ kheo liền vâng theo lời dạy của đức Câu Lâu Tần Như lai chí chơn, đẳng chánh giác, tu hành như pháp cho nên dù ma có tìm cơ hội vẫn không có.

Vì ma xúi dục cho trưởng giả Phạm chí bảo họ cúng dường Sa môn trì giới, nhờ công đức ấy nên họ đều được sanh lên trời. Khi họ sanh lên trời xong, họ đều suy nghĩ rằng: “Chúng ta nhờ cúng dường, thờ pháp của Sa môn trì giới thanh tịnh nên tự mình được phước này, không phải nhờ người khác hay trời mà có được như vậy”.

Bấy giờ đức Phật Câu Lâu Tần Như lai, bậc chí chơn đẳng chánh giác, sau khi thọ thực, lúc mặt trời xế bóng cùng đệ tử lớn của ngài là tôn giả Hồng Âm du hành nơi quận huyện. Khi ấy Tệ Ma hóa thành một người dũng mảnh to lớn, tay cầm gậy lớn đứng bên đường, lén giơ gậy lớn đập vào đầu tôn giả Hồng Âm làm bể đầu, máu chảy lênh láng. Bấy giờ tôn giả vẫn đi sau đức Thế tôn như bóng theo hình im lặng không nói. Ðức Câu Lâu Tần Như lai là bậc thánh không ai bằng, quay đầu nhìn lại miệng nói lời trách rằng: “Này ma sân hận, không biết kiềm chế đã tạo ra sự đại ác này”.

Khi ấy ma Sân hận ngay thân của nó liền đọa vào địa ngục, rồi hết ngục này đi đến ngục khác. Giống như con nòng nọc, con cá ra khỏi nước lên đất liền, giống như lột da trâu sống, dần dà trong địa ngục chịu sự thống khổ không sao nói được.

Lúc ấy ma Ba tuần nó ở trong địa ngục dần dần chịu sự đau đớn kịch liệt, trải qua ức năm, gấp bội ngàn vạn năm ở trong địa ngục ấy. Thí như có người thân bị bệnh cuồng, chạy đến chỗ bất an. Khi ấy này ma Ba tuần nó bị đọa vào đại địa ngục bị thống khổ vô lượng. Lúc đó ngục tốt đến nói rằng: “Ngươi nên biết rằng nếu có một cái thẻ là một con chim bay lên, trải qua mười ngàn vạn năm như vậy. So sánh như vậy cũng khó biết được số năm Tệ Ma ở trong địa ngục. Sau cùng mới ra khỏi địa ngục lại gặp ách nạn hơn hai vạn năm. Khi ấy Tệ Ma mới hết sầu khổ.

Ðức Phật nói cho tôn giả Mục Liên bài kệ rằng:

Ma sân phải chịu tội.

Ðịa ngục ấy thế nào.

Lúc Phật Câu Lâu Tần.

Hóa độ chúng đệ tử.

tai hoạn áo não.

Bị khảo trị tất cả.

Lửa đốt tự thiêu thân.

Lửa thiêu mặt thiêu hình.

Ðịa ngục ấy như vậy.

Ma Sân hận ở đó.

Lúc Phật Câu Lâu Tần.

Hồng Âm đệ tử lớn.

Giả sử trước đức Phật.

Và xem các Tỳ kheo.

Do duyên đó thọ tội.

Tại vì làm nhiễu loạn.

Nếu ưa thích phê bình.

Tỳ kheo đệ tử Phật.

Phải thọ tai ương này.

Sanh nơi cực khổ hoạn.

Như người nhảy vực sâu.

Bỏ mất cung điện lớn.

Không ở với ngọc nữ.

Bỏ thú vui cõi trời.

Ai hiểu rõ điều này.

Tỳ kheo đệ tử Phật.

Từ đó được thoát ra.

Nguy hại đọa khổ hoạn.

Ma nên biết thân ta.

Nương vào cửa giải thoát.

Không thiên xứ, thiên nhơn.

 Trời Danh Văn Ðao Lợi.

Nếu phân biệt như vậy.

Tỳ kheo đệ tử Phật.

Tự thân phạm phi pháp.

Do đó vào đường dữ.

Ai dùng một ngón chân.

Rung động cung tối thắng.

Xử dụng thần túc lực.

Ðại cảm ứng Mục liên.

Ai hiểu rõ điều này.

Tỳ kheo đệ tử Phật.

Nếu hưng lập tự thân.

Sao lại đọa ác thú.

Ví có trăm đoan chánh.

Ngọc nữ đẹp vi diệu.

Thấy Tỳ kheo thiền tư.

Liền không ở viên quán.

phân biệt như vậy.

Tỳ kheo đệ tử Phật.

Tỳ kheo tự tạo nghiệp.

Hoặc bị đọa ác thú.

Giả sử cùng hòa đồng.

Ðến hỏi trời Ðế Thích.

Thiên đế hiểu hay không.

Nhơn đâu được giải thoát.

Lúc phát khởi thích ứng.

Tùy theo người hỏi đáp.

Nếu mình không đắm trước.

Sau đó được giải thoát.

Nếu hiểu rõ việc này.

Tỳ kheo đệ tử Phật.

Tùy mình tạo hành động.

Tự mình đến ác thú.

Hoặc đến cõi Phạm thiên.

Thưa hỏi vua Phạm thiên.

Do đâu đến chỗ này.

Ðược ở nơi Phạm thiên.

Phạm thiên liền đáp rằng.

Tùy hỏi mà trả lời.

Nay ta ở chỗ này.

Chưa từng sanh tà kiến.

Từ Phạm thiên khắp xem.

Ánh sáng bị thối chuyển.

Nay ta sẽ nói gì?

Thân ta trường thọ ư?

Nếu ai hiểu điều này.

Tỳ kheo đệ tử Phật.

Tự thân phạm phi pháp.

Tự nhiên khỏi khổ đau.

Như lửa không nghĩ rằng.

Ta sẽ đốt kẻ ngu.

Ngu tự sờ vào lửa.

Lại bị lửa thiêu thân.

Ba Tuần nên hiểu thế.

Dụng ý hướng Như lai.

Chỉ nguy hại thân mình.

Như lửa thiêu kẻ dại.

Người thích làm điều ác.

Thân họ mãi khổ đau.

Ðời sau không tự giác.

Ðừng nhiễu loạn Tỳ kheo.

Ma Sân chớ thử Phật.

Và nhiễu loạn đệ tử.

Mãi mãi không an ổn.

Phải sanh vào ác thú.

Bấy giờ ma hàng phục.

khủng bố Tỳ kheo.

Nghe như vậy ưu sầu.

Bỗng biến mất không hiện.

Ðức Phật nói như vậy, chư thiên, Long thần ai cũng đều hoan hỷ

 

PHẬT NÓI KINH TỆ MA THỬ TÔN GIẢ MỤC LIÊN

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 13775)
Đại chánh tân tu số 0015, Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13170)
Đại chánh tân tu số 0014, Hán dịch: Sa Môn An Thế Cao, Việt dịch: Thích Chánh Lạc và Tâm Hạnh
(Xem: 13608)
Kinh Bát Nê Hoàn (Đại Chánh Tân Tu số 0006) - Thích Chánh Lạc dịch
(Xem: 12514)
Kinh Phật Bát Nê Hoàn (Đại Chánh Tân Tu số 0005) - Bạch Pháp Tổ; Thích Chánh Lạc dịch
(Xem: 12112)
Kinh Thất Phật Phụ Mẫu Tánh Tự (Đại Chánh Tân Tu số 0004) - Thích Chánh Lạc dịch
(Xem: 12938)
Kinh Phật Tỳ Bà Thi (Đại Chánh Tân Tu số 0003) Hán Dịch: Tống Pháp Thiên, Việt dịch: Thích Tâm Hạnh
(Xem: 13031)
Kinh Thất Phật (Đại Chánh Tân Tu số 0002) Hán Dịch: Tống Pháp Thiên, Việt dịch: Thích Tâm Hạnh
(Xem: 13265)
Đức Phật dạy: Ai muốn tin Ta, làm đệ tử Ta, cần phải đủ trí quán sát, mới tin; không rõ nguyên nhân Ta, mà tin Ta ấy là phỉ báng Ta... HT Thích Hành Trụ dịch
(Xem: 21377)
Thiện Ác Nghiệp Báo (Chư Kinh Yếu Tập) Đại Chánh Tân Tu số 2123 - Nguyên tác: Đạo Thế; Thích Nguyên Chơn dịch
(Xem: 143908)
Đại Tạng Việt Nam bao gồm 2372 bộ Kinh, Luật và Luận chữ Hán và tất cả đã kèm Phiên âm Hán Việt...
(Xem: 15704)
Đại Chánh Tân Tu số 0018 - Hán dịch: Ðại Sư Pháp Hiền (đời Tống), Việt Dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 81339)
Kinh Nhật Tụng - Kinh Tụng Hằng Ngày
(Xem: 19607)
Kinh Trường Thọ Diệt Tội Hộ Chư Đồng Tử Đà La Ni - Đời Đường, nước Kế Tân, Tam Tạng Sa môn Phật Đà Ba Ly vâng chiếu dịch, Việt dịch: Sa-môn Thích Thiện Thông.
(Xem: 20261)
Kiền Long Đại Tạng Kinh bao gồm 168 tập, chứa đựng 1669 bộ Kinh văn... Tổng hợp Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 19294)
Kinh Vô Lượng Nghĩa - Tam tạng pháp sư Đàm Ma Già Đà Da Xá, người Thiên-trúc, dịch từ Phạn văn ra Hán văn tại Trung-quốc, vào đời Tiêu-Tề; Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn
(Xem: 15209)
Kinh Hạnh Nguyện Phổ Hiền - Tam Tạng pháp sư Bát Nhã, người nước Kế-tân, dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào đời Đường; Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn
(Xem: 13088)
Có lần Đấng Thế Tôn ngụ tại vùng của bộ tộc Thích-ca (Sakka) tại thành Ca-tì-la-vệ (Kapilavatthu) trong khu vườn Ni-câu-đà (Nigrodha).
(Xem: 13159)
Đây là những điều tôi nghe Bụt nói vào một thời mà người còn lưu trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ Đà. Hôm ấy, cư sĩ Cấp Cô Độc cùng với năm trăm vị cư sĩ khác đã tìm đến nơi cư ngụ của thầy Xá Lợi Phất.
(Xem: 49039)
Trong khế kinh, Đức Phật nói. "Chỉ vì đại sự nhơn duyên duy nhấtĐức Phật xuất hiện thế gian, đó là muốn mọi người, mọi chúng sanh đều thành Phật đồng như Đức Phật"... HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 14808)
Pháp Hoa Tông Yếu, Thứ tự kinh văn số 1725 trong Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh do Ngài Nguyên Hiểu sọan chữ Hán, Sa Môn Thích Như Điển dịch.
(Xem: 18649)
Bộ Pháp Hoa Huyền Nghĩa xuất bản hôm nay không có một liên quan nào, về mọi phương diện, với những bộ Kinh danh đề tương tựchúng ta thấy trong Đại tạng... Chánh Trí Mai Thọ Truyền
(Xem: 16438)
Tỳ Kheo Huệ Chiểu chùa Đại Vân ở Chuy Châu sọan, Sa Môn Thích Như Điển Phương Trượng chùa Viên Giác Hannover Đức Quốc dịch từ Tiếng Hán sang tiếng Việt trên chuyến Hoằng Pháp Âu Châu năm 2013
(Xem: 19406)
Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Văn Cú - Do HT Thích Như Điển dịch Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh
(Xem: 28066)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, các đệ tử tiếp tục truyền bá giáo lý của ngài trong nhân gian. Đồng thời, để bảo đảm giáo lý của ngài một cách trung thực cho hậu thế, họ đã gom lại kết tập để soạn thành một tập toàn bộ kinh điển.
(Xem: 22202)
Suốt trong 45 năm thuyết pháp, đức Phật đã nói rất nhiều Pháp ngữ, bao gồm nghĩa lý thâm thiết để cởi mở nghiệp khổ cho chúng sanh... HT Thích Thiện Siêu dịch
(Xem: 23349)
Thiện nam tử! Có một loại pháp Bồ tát nên diệt trừ. Ðó là pháp tham. Thiện nam tử ! Ðây là một pháp phải nên diệt trừ vĩnh viễn.
(Xem: 64877)
Một thuở nọ Thế-tôn an-trụ Xá-vệ thành Kỳ-thụ viên trung, Mục-liên mới đặng lục-thông, Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm-luân.
(Xem: 33253)
Thế Tôn, nếu con nghĩ rằng con đắc đạo A La Hán, thì Thế Tôn chẳng nói Tu Bồ Đề là một hành giả thanh tịnh hạnh. Vì Tu Bồ Đề vốn là vô sở hành...
(Xem: 40212)
Tam thế chư Phật, chư Đại-Bồ-tát, thật chứng và nhập một với Pháp-giới-tính nên phát-khởi vô-duyên đại-từ, đồng-thể đại-bi, hiện ra vô số thân, theo duyên hóa-độ vô-lượng vô-biên chúng-sinh...
(Xem: 27347)
Kinh Trường Bộ thi hóa (3 tập) - Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli - Chuyển thể Thơ: Giới Lạc Mai Lạc Hồng
(Xem: 74943)
Kinh chữ Hán - ĐĐ. Thích Hạnh Phú sưu tầm & biên soạn
(Xem: 36177)
Sắc là vô thường. Vô thường tức là khổ. Khổ tức là chẳng phải ta. Cái gì chẳng phải ta thì cũng chẳng phải sở hữu của ta. Quán sát như vậy gọi là chân thật chánh quán.
(Xem: 49025)
Người nhất tâm nghe kinh có hai hạng: nghe rồi thọ trì pháp và nghe rồi không thọ trì pháp. Người nghe rồi thọ trì pháp là hơn, người nghe rồi không thọ trì pháp là kém.
(Xem: 31037)
Nếu dùng hình sắc để thấy ta, Dùng âm thanh để cầu ta, Người nầy hành tà đạo, Chẳng thể thấy Như Lai... HT Thích Như Điển
(Xem: 33967)
Kinh Bại Vong (Parabhava-sutta) rút từ Tập Kinh (Suttanipata), kệ số 91-115, trang 18-20, Pali Text Society... HT Thích Thiện Châu dịch
(Xem: 58863)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại Trúc Y Ðạo tràng trong thành Thất-la-phiệt, cùng các vị đại Tỳ-khưu chúng gồm 1.250 người đều đầy đủ.
(Xem: 46297)
“Ðức Thế Tôn nghe Phạm vương ba lần ân cần thưa thỉnh, liền dùng Phật nhãn soi khắp thế giới chúng sanh, thấy sự ô nhiễm của chúng sanh có dày có mỏng...
(Xem: 43860)
Khi Đức Phật nói danh hiệu chư Phật đời quá khứ, có mười ngàn Bồ Tát, được Vô sinh nhẫn, tám trăm Thanh Văn, phát thiểu phận tâm, năm ngàn Tỷ khưu...
(Xem: 43251)
Kinh vừa là Kinh Phật, lại vừa là miệng Phật. Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã...
(Xem: 45969)
Này các Kàlàmà, chớ có tin vì nghe báo cáo, chớ có tin vì nghe truyền thuyết; chớ có tin vì theo truyền thống; chớ có tin vì được kinh điển truyền tụng...
(Xem: 48054)
Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Trọn bộ 11 tập - 600 cuốn; Hán dịch: Huyền Trang, Việt dịch: HT Thích Trí Nghiêm
(Xem: 34654)
Nếu kẻ nam tử người nữ nhơn thân có tai ách, trong nhà nên an trí tháp xá-lợi và hình tượng Phật, họa vẽ tượng đức Văn-thù-sư-lợi Đồng tử, thiêu các thứ hương...
(Xem: 33466)
Phật dạy A-nan: “Đời quá khứ, cõi Diêm-phù-đề này có một vị Tỳ-khưu tên là Truyền Giáo. Ngày 15 tháng chín đi du hành về phương Bắc, cách nước Chi Na không xa...
(Xem: 43950)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 52969)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh...Nguyễn Minh Tiến; Đoàn Trung Còn
(Xem: 40502)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43509)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 31478)
Nakulapita là một người chủ gia đình sinh sống trong vùng Bhagga, đã trọng tuổithường hay đau yếu. Ông rất kính mến Đức PhậtĐức Phật cũng xem ông như một người con của mình.
(Xem: 28720)
"Có một lần Đấng Thế Tôn lưu ngụ với những người dân trong vùng Bhagga, gần thị trấn Sumsumaragiri, thuộc khu rừng Lộc Uyển...
(Xem: 31917)
Lúc bấy giờ, rừng cây Ta La ở thành Câu Thi Na, rừng ấy biến thành màu trắng giống như con hạc trắng. Ở trong hư không tự nhiên mà có tòa lầu các bảy báu với những hoa văn...
(Xem: 28858)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Các vị Đại Bồ Tát nên hàng phục tâm như thế này: ‘Đối với tất cả các loài chúng sinh, hoặc sinh từ bào thai, hoặc sinh từ trứng, hoặc sinh nơi ẩm thấp, hoặc do biến hóa sinh ra...
(Xem: 33396)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0376, Hán dịch: Đời Đông Tấn, Sa-môn Pháp Hiển, Việt dịch: Thích Nguyên Hùng
(Xem: 29165)
Gương trí vằng vặc của Như Lai cũng như thế, là pháp giới vắng lặng không có gián đoạn không có dao động, vì muốn giúp vô lượng vô số chúng sanh thấy rõ nhiễm-tịnh...
(Xem: 61008)
Kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni - một trong các pháp môn - là trí ấn của tất cả Như Lai, mầu nhiệm rộng sâu, khác chi thuyền bè trong biển ba đào, nhật nguyệt giữa trời u ám.
(Xem: 39803)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 29697)
Trong Kiến Đàn Giải Uế Nghi của Thủy Lục Chư Khoa có lời tán thán bồ tát Quán Thế Âm rằng: “Nhân tu sáu độ, quả chứng một thừa, thệ nguyện rộng sâu như biển lớn mênh mông không thể đo lường...
(Xem: 37407)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 26859)
Nếu các chúng sanh ác tâm hướng nhau, hãy xưng danh hiệu Địa Tạng Bồ-tát, nhất tâm quy y, khiến chúng sanh kia nhu hòa nhẫn nhục, hổ thẹn với nhau, từ tâm sám hối...
(Xem: 42693)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 26414)
Này các thầy! Tánh Không thì rỗng không, không vọng tưởng, không sanh, không diệt, lìa tất cả tri kiến. Vì sao? Vì tánh Không không có nơi chốn, không thuộc sắc tướng...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant