Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Mười Cư Sĩ Người Bát Thành

17 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 13459)
Kinh Mười Cư Sĩ Người Bát Thành


PHẬT NÓI KINH MƯỜI CƯ SĨ NGƯỜI BÁT THÀNH


Đại Chánh Tân Tu, Bộ A Hàm, Kinh số 0092 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

Hán dịch: Ðời Hậu Hán, nước An Tức Tam Tạng An Thế Cao.

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

---o0o--- 

 


Nghe như vầy:

Một thời các Tỳ kheo thượng tôn ở trong Kê viên thành Ba La Lê Phất Ðô Lô, lúc đức Thế Tôn nhập Niết bàn không bao lâu.

Bấy giờ có mười vị cư sĩ, người Bát Thành, có nhiều tiền của đi đến Ba La Lê Phất Ðô Lô để sinh sống. Khi ấy mười vị cư sĩ ở Bát Thành mang tiền tài đồ vật để buôn bán, bán hết rồi nên rất hoan hỷ, khi được tài lợi rất hoan hỷ, trong lòng vô cùng sung sướng. Họ đi ra khỏi thành Ba La Lê Phất Ðô Lô để đến Kê viên. Khi đến xong họ lạy dưới chân các Tỳ kheo thượng tôn rồi ngồi qua một bên. Khi mười vị cư sĩ người của Bát Thành ngồi qua một bên rồi, lúc ấy các Tỳ kheo thượng tôn thuyết pháp cho họ nghe, khuyên tinh tấn... bình đẳng khuyên dạy tinh tấn, bình đẳng dạy dỗ, dùng vô lượng phương tiện để thuyết pháp khuyên siêng năng cho đến bình đẳng giáo thọ, khiến cho tất cả đều hoan hỷ rồi, các ngài trụ trong im lặng.

Bấy giờ mười vị cư sĩ, ở người Bát Thành nghe các vị Tỳ kheo thượng tôn thuyết pháp khuyến tinh tấn cho đến tất cả đầu hoan hỷ rồi, bạch các Tỳ kheo thượng tôn rằng:

-Thưa chư vị thượng tôn, hiện nay tôn giả A Nan ở chỗ nào? Chúng con muốn gặp Ngài.

-Này cư sĩ, tôn giả A Nan ở trên bờ sông Di Hầu của Tỳ Xá Ly, muốn gặp Ngài thì cứ đến đó.

Khi ấy mười vị cư sĩ, người Bát Thành từ tòa đứng dậy lạy dưới chân các Tỳ kheo thượng tôn, nhiễu quanh rồi ra đi. Họ đến chỗ tôn giả A Nan, đến rồi lạy dưới chân tôn giả A Nan, rồi ngồi lui qua một bên. Mười vị cư sĩ người ở Bát Thành ngồi lui qua một bên rồi thưa tôn giả A Nan rằng:

-Thưa Ngài A Nan, chúng con có điều muốn hỏi, nếu Ngài cho phép chúng con mới dám hỏi.

-Cứ hỏi đi, này các cư sĩ.

-Thưa tôn giả A Nan, đức Thế Tôn có trí có kiến, Như Lai, bậc Vô sở trước, Ðẳng chánh giác, dùng mắt thấy đệ nhất nghĩa nói một pháp làm cho Thánh đệ tử an trú, đối với chỗ khác, làm cho hữu lậu chấm dứt, ý được giải thoát chăng?

-Này cư sĩ, đức Thế Tôn có trí có kiến, Như Lai, bậc Vô sở trước, Ðẳng chánh giác, dùng mắt thấy đệ nhất nghĩa nói một pháp Thánh đệ tử được an trú, đối với chỗ khác, làm cho hữu lậu chấm dứt, ý được giải thoát.

-Thế nào, thưa tôn giả A Nan, đức Như Lai bậc Vô sở trước, Ðẳng chánh giác, dùng mắt thấy đệ nhất nghĩa nói một pháp, Thánh đệ tử an trú, đối với chỗ khác, làm cho hữu lậu chấm dứt, ý được giải thoát?

-Này cư sĩ, Thánh đệ tử đã nghe, đối với dâm dục đã được giải thoát cho đến Tứ thiền, an trú chánh thọ. Vị ấy nương vào Pháp, pháp tướng quán hạnh đình chỉ. Vị ấy nương vào Pháp, an trụ sự đình chỉ pháp tướng quán hạnh, nhờ có chỗ này nên chỗ trụ của vị ấy được chấm dứt hữu lậu, không trụ nơi đó nên được chấm dứt hữu lậu. Kẻ ấy tự mình thích pháp, tự mình yêu pháp, tự mình tập pháp, tự mình kính pháp, được hoan hỷ, kẻ ấy năm hạ phần kiết đã chấm dứt, được hóa sanh. Kẻ ấy được Bát Niết bàn thành A Na Hàm, không còn trở lại thế gian này nữa. Do đó này các cư sĩ, đức Thế Tôn hữu trí hữu kiến, Như Lai, bậc Vô sở trước, Ðẳng chánh giác, mắt thấy đệ nhất nghĩa, nói một pháp nên Thánh đệ tử an trụ, có chỗ khác làm cho hữu lậu chấm dứt, ý được giải thoát.

Lại nữa, này cư sĩ, Thánh đệ tử nghe, ý cùng từ tâm biến mãn một phương rồi, an trụ chánh thọ. Như vậy, hai, ba, bốn phương trên và dưới, ý cùng từ tâm câu hữu biến mãn tất cả các phương, không oán, không hại, không hận, rất rộng lớn, phân biệt rõ ràng, biến mãn các phương rồi an trụ chánh thọ. Như vậy ý cùng đi đôi với tâm bi, hỷ và hộ, biến mãn các phương rồi, an trụ chánh thọ. Vị ấy nương vào pháp đình chỉ pháp tướng quán hạnh. Vị ấy nương vào pháp an trụ sự đình chỉ pháp tướng quán hạnh, nhờ có chỗ này, an trụ vào đó rồi liền được chấm dứt hữu lậu, không trụ nơi đó, được chấm dứt hữu lậu. Nếu kẻ ấy dùng pháp lạc, pháp ái, tập hành pháp, tôn kính pháp, được hoan hỷ đối với pháp, năm hạ phần kết chấm dứt, được hóa sanh, ngay nơi đó được Bát Niết bàn thành A Na Hàm, không còn trở lại thế gian này nữa. Này cư sĩ, đó là đức Thế Tôn có trí có kiến, Như Lai, bậc Vô sở trước, Ðẳng chánh giác, mắt thấy đệ nhất nghĩa, nói một pháp mà Thánh đệ tử an trụ, có một chỗ khác làm cho hữu lậu chấm dứt, ý được giải thoát.

Lại nữa, này cư sĩ, Thánh đệ tử nghe, vượt qua tất cả sắc tưởng, cho đến hữu tưởng vô tưởng xứ, an trụ chánh thọ, vị ấy nương vào pháp, đình chỉ pháp tướng quán hạnh, cho đến chấm dứt hữu lậu, ý được giải thoát.

Bấy giờ mười vị cư sĩ người ở Bát Thành thưa với tôn giả A Nan rằng:

-Rất lạ, thưa tôn giả A Nan! Chúng con hỏi tôn giả A Nan có một cửa cam lồ mà Ngài nói tới mười hai cửa cam lồ. Thưa tôn giả A Nan, đối với mười hai cửa cam lồ này, cứ nương vào mỗi một cửa cam lồ sẽ được an ổn, tự mình được chế ngự. Giống như, thưa tôn giả A Nan, cách thôn xóm không xa, có một tòa lâu đài, tòa lâu đài ấy có mười hai cửa. Hoặc có người vào trong ấy vì có chút việc, hoặc có người sống không có nghĩa, không lợi ích, không an ổn, không khoái lạc trong nhà ấy, hoặc có người dùng lửa để thiêu đốt tòa lâu đài ấy. Thưa tôn giả A Nan, người đối với mười hai cửa này, tùy ý mà đi ra an ổn. Cũng như vậy, thật lạ lùng! Thưa tôn giả A Nan, chúng con chỉ hỏi tôn giả A Nan có một cửa cam lồ, nhưng Ngài đã nói đến mười hai cửa cam lồ. Thưa tôn giả A Nan, nhiều cửa như vậy nên đối với mười hai cửa cam lồ, nương vào từng cửa cam lồ, rồi cũng theo từng cửa mà đi ra. Thưa tôn giả A Nan, các Bà la môn kia đem ác pháp cúng thí đồ vật cho thầy họ, huống chi chúng con hiện nay đối với bậc đại sư mà lại không dùng của cải để cúng dường sao?

Bấy giờ mười vị cư sĩ người của Bát Thành, trong đêm đó, sửa soạn đầy đủ đồ ăn uống tịnh diệu, khi đã sửa soạn đầy đủ đồ ăn uống tịnh diệu xong, rồi họ trải tòa, trải tòa xong, họ thỉnh Tỳ kheo tăng ở Kê viên, Tỳ kheo tăng ở Tỳ Xá Ly đều đến tụ hội. Khi các Tỳ kheo tăng ở Kê viên, Tỳ kheo tăng ở Tỳ Xá Ly đều đã tụ hội, họ tự tay dâng cúng đồ ăn uống tịnh diệu. Khi đã tự tay dâng cúng đồ ăn uống tịnh diệu rồi, biết các Ngài đã dùng xong, thu cất bình bát, đem nước rửa tay cho các Ngài, rồi họ đem năm trăm món vật, mua phòng cúng dường cho tôn giả A Nan để Ngài xử dụng. Tôn giả A Nan đem của ấy lại cúng dường cho tăng bốn phương.

Ngài A Nan nói như vậy, mười vị cư sĩ người của Bát Thành, nghe tôn giả A Nan nói rồi, hoan hỷ vui mừng

 

PHẬT NÓI KINH MƯỜI VỊ CƯ SĨ NGƯỜI BÁT THÀNH

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 43880)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 43003)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366, Đoàn Trung Còn và Nguyễn Minh Tiến dịch
(Xem: 48991)
Có một lúc, đức Phật ở trong núi Kỳ-xà-quật gần thành Vương Xá, cùng với các vị đại tỳ-kheo mười hai ngàn người, đại Bồ Tát là tám mươi ngàn người.
(Xem: 39805)
Bấy giờ, đức Thế Tôn ở giữa đại chúng, vì đại chúngthuyết giảng giáo pháp nhiệm mầu, trừ sạch bốn điên đảo, khiến cho được rõ biết các pháp lành...
(Xem: 53765)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, lúc mới Chuyển pháp luân độ ông A-nhã Kiều-trần-như, đến khi thuyết pháp lần cuối cùng độ ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 36804)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng. Nếu thấy các tướng thật chẳng phải tướng tức là thấy Như Lai.
(Xem: 40779)
Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: "Về phương đông, cách đây vô số cõi Phật nhiều như số cát sông Hằng, có một thế giới tên là Tịnh Lưu Ly.
(Xem: 49707)
Lúc ấy, Bồ Tát Vô Tận Ý từ chỗ ngồi đứng dậy, vén tay áo bên vai mặt, quỳ xuống chắp tay cung kính bạch Phật rằng...
(Xem: 47290)
Thế Tôn thành đạo dĩ, tác thị tư duy: “Ly dục tịch tĩnh, thị tối vi thắng.” Trụ đại thiền định, hàng chư ma đạo. Ư Lộc dã uyển trung...
(Xem: 27673)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 25807)
Quyển Kinh Lời Vàng này nguyên danh là "Phật Giáo Thánh Kinh" do nữ Phật tử Dương Tú Hạc biên trước bằng Hán Văn (người Trung Hoa).
(Xem: 29858)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27120)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 24693)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 21276)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23194)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 23853)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22769)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 29548)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20610)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 34143)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 24626)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 29967)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20193)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20384)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15120)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 23840)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
(Xem: 34037)
Tiểu Bộ Kinh - Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
(Xem: 23969)
Quy mạng Lô Xá Na, Mười phương Kim Cương Phật. Ðảnh lễ đức Di Lạc, Sẽ hạ sanh thành Phật. Nay tụng ba tựu giới, Bồ Tát đều cùng nghe.
(Xem: 29156)
Tôi nghe như vầy: Một thời Thế-tôn, châu du giáo hóa các nước đến thành Quảng-nghiêm, ở nghỉ dưới cây Nhạc-âm, cùng với tám ngàn vị đại tỳ-kheo...
(Xem: 60098)
Bồ TátVô Tận Ý Khi bấy giờ chăm chỉ đứng lên Bèn trịch vai hữu một bên Chắp tay cung kính hướng lên Phật đài
(Xem: 27573)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 68676)
Chúng sanh đây có bấy nhiêu Lắng tai nghe lấy những điều dạy răn Các ngươi trước lòng trần tục lắm Nên kiếp nầy chìm đắm sông mê
(Xem: 24484)
Một thuở nọ Thế Tôn an trụ Xá Vệ thành Kỳ Thụ viên trung Mục Liên mới đặng lục thông Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm luân.
(Xem: 26324)
Lăng-già (Lanka) là tên núi, núi này do sản xuất châu Lăng-già nên lấy tên châu mà gọi tên núi. Núi nằm tại biển Nam là chỗ ở của Dạ-xoa.
(Xem: 20777)
Lư hương xạ nhiệt, Pháp-giới mông huân. Chư Phật hải hội tất diêu văn, Tùy xứ kiết tường vân
(Xem: 20028)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phảng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 27527)
Làm người Phật tử ở đời Đêm ngày tụng niệm những lời dạy khuyên Tám điều giác ngộ kinh truyền Ghi lòng tạc dạ tinh chuyên tu hành
(Xem: 46350)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 25534)
Phụng dịch theo bản đời Đường của Ngài Thiệt Xoa Nan Đà. Tham khảo các bản dịch đời Ngụy, Tống và bản dịch Anh Ngữ của Suzuki. - Dịch Giả: Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 29208)
VIMALAKĪRTINIRDEŚA - SŪTRA - Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết - Đường Huyền Trang dịch - bản dịch Việt: Tuệ Sỹ
(Xem: 188725)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi tam-bảo
(Xem: 27377)
Thắng Man Phu nhân điển hình cho phụ nữ thực hành Bồ tát đạo bằng cung cách trang nhã, từ ái, khiêm cung. Môi trường thực hành bao gồm từ giới hạn thân thuộc...
(Xem: 31091)
Kinh Pháp Cú (Kinh Lời Vàng), The Path of Truth - Việt dịch: Hòa Thượng Thích Minh Châu - Họa sĩ: Mr. P. Wickramanayaka (vẽ theo bản tiếng Anh mà HT Thích Minh Châu dịch) - Vi tính: Tâm Tịnh
(Xem: 33099)
Tích truyện Pháp Cú - Thiền viện Viên Chiếu - Nguyên tác: "Buddhist Legends", Eugène Watson Burlingame
(Xem: 23967)
Sau 45 năm thuyết pháp, những lời giảng daỵ của Đức Phật không những không bị quên lãng, thất lạc mà còn được lưu giữ, truyền bá mãi đến ngày nay...
(Xem: 25556)
Ta Bà là chốn tạm ở thôi Cửa không mau phải hồi đầu lại Hai sáu nguyện vương tiêu tai chướng Ba ngàn hoá Phật chứng lòng thành
(Xem: 26642)
Cuộc đối thoại đầy đạo vị hứng thú dĩ nhiên được truyền tụng khắp nơi trong giới Phật giáo cũng như ngoài nhân gian. Về sau, vào thế kỷ đầu sau Tây lịch, sợ để khẩu truyền lâu ngày
(Xem: 36588)
Ở phương Ðông cách đây hơn mười căn dà sa cõi Phậtmột thế giới tên là Tịnh Lưu Ly. Ðức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai
(Xem: 27286)
Lúc Đức Phật Thích-ca chứng đắc, Chuyển bánh xe chánh pháp độ sanh, Kiều-trần-như được duyên lành, Năm anh em họ viên thành lý chân,
(Xem: 30330)
Phật Thùy Ban Niết Bàn Lược Thuyết Giáo Giới Kinh (Kinh Di Giáo) - Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0389 - Cưu Ma La Thập dịch Hán; HT. Thích Trí Quang dịch Việt
(Xem: 37253)
Một thời Ðức Phật ở nước Xá Vệ, trong vườn Cấp Cô Ðộc, cây của thái tử Kỳ Ðà, cùng với các đại Tỳ Kheo Tăng... Thích Minh Định dịch
(Xem: 23866)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Kỳ Thọ Cấp Cô Độc gần thành Xá Vệ, với đại chúng khất sĩ gồm một ngàn hai trăm năm mươi vị. Hôm ấy vào giờ khất thực, Bụt mặc áo và ôm bát đi vào thành Xá Vệ.
(Xem: 36914)
Khuyến phát Bồ Đề Tâm văn; Âm Hán Việt: Cổ Hàng Phạm Thiên Tự Sa môn Thật Hiền soạn; Dịch: Sa môn Thật Hiền chùa Phạm Thiên Cổ Hàng soạn
(Xem: 27568)
Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm Kinh - Năm trăm Danh Hiệu Phật và Bồ Tát Quán Thế Âm
(Xem: 28304)
Công Phu Khuya
(Xem: 24132)
Nói một cách vắn tắt, sự xuất hiện của Duy-ma-cật là xu hướng khẳng định vai trò tích cực của chúng đệ tử tại gia trong giáo pháp của Phật, về các mặt hành đạo cũng như hóa đạo.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant