Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Quyển Thứ Mười

04 Tháng Mười Hai 201300:00(Xem: 9280)
Quyển Thứ Mười


KINH BẢO TINH ÐÀ LA NI


Đại Chánh Tân Tu, Bộ Đại Tập, số 0402

Nguyên tác: [1] [2] [3] [4] [5] [6] [7] [8] [9] [10]

- Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Ba La Pha Mật Ða La - Ðời Ðường

 - Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang

Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh

---o0o---


Quyển thứ mười.


PHẨM THỨ MƯỜI HAI: A TRA BẠC CÂU

 

Lúc bấy giờ, đại tướng quân chúa trong chúng dạ xoa tên là A Tra Bạc Câu biến làm hình tướng dạ xoa đáng sợ. Lại có dạ xoa tên là Vi Tưởng biến làm hình tướng nai. Lại có dạ xoa tên là Trí Cự hóa làm hình tướng khỉ đột. Lại có dạ xoa tên là Xả Khát Ái hóa làm hình tướng dê đen. Lại có dạ xoa tên là Ðoạn Lưu hóa làm hình tướng voi. Năm dạ xoa này chính là hạng thiện trượng phu ở cách đức Thích Ca Như Lai chẳng xa, ngồi ở trước đức Như Lai Kiều Trần Viêm. Tất cả thân phận của năm người này đều phát ra ánh sáng thơm vi diệu thanh tịnh, mỗi người dùng hai tay bưng báu lớn sáng lòa lên cúng dường đức Thế Tôn. Bấy giờ, Ðại Bồ tát Hoài Lạc dùng tấm lòng thanh tịnh quán sở y (nương) thanh tịnh của năm người này quả thật là Ðại Bồ tát, liền bảo Tướng quân Ðại Dạ xoa A Tra Bạc Câu rằng:

- Này thiện trượng phu! Các ông hôm nay thấy những nghĩa gì mà hiện tướng uy nghi như vậy để làm việc cúng dường đức Thế Tôn?

A Tra Bạc Câu đáp lại Bồ tát Hoài Lạc rằng: 

- Thưa thiện nam tử! Vào đời quá khứ chín mươi mốt kiếp, ở cõi Phật này có đức Phật ra đời hiệu là Tỳ Bà Thi Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri. Thuở đời đức Phật đó, chúng tôi là anh em đồng một mẹ sinh ra, ở chỗ đức Phật đó đều phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Vì thành thục chúng sinh, siêng tạo tác phương tiện, từ đó về sau, ở chỗ đức Thi Khí Như Lai, chỗ đức Tỳ Diệp Bà Như Lai, chỗ trong Ðại Hiền Kiếp này, đức Như Lai đầu tiên hiệu là Câu Lưu Tôn đức Phật đó ra đời, từ đó về sau chúng tôi nguyện thường làm anh em đồng một mẹ. Ðối với đức Như Lai đó, anh em chúng tôi dùng đủ thứ cúng dường, cung cấp mọi thứ cần dùng. Thuở đời đức Phật đó, Trượng Phu Tưởng Thiện (A Tra bạc Câu) là Ưu bà tắc, ưa tu thiền định đã phát nguyện như vầy: “Nguyện cho ta thường ở trong đại Hiền Kiếp làm đại tướng Dạ xoa. Nếu có dạ xoa cư trú chỗ khoáng dã, đối với các chúng sinh thường mang lòng ác, không có bi mẫn, bọn chúng với đủ thứ hình tướng dạ xoa đủ loại, cho đến ca tra, phú đơn na.v.v... thì tôi dùng phương tiện thị hiện đồng loại với chúng mà vì chúng nói chánh pháp, khiến cho chúng sinh niềm tin thanh tịnh. Ðược tịnh tín rồi, ta vì họ thọ giới pháp, đặt họ vào đạo thiện yên ổn tốt lành. Cho đến tùy theo chỗ sở tại, những đường súc sinh cũng lại như vậy, hươu nai, hổ lang, heo, dê, chó.v.v... vì chúng nói pháp. Cho đến hằng hà sa số ác dạ xoa.v.v... những đường súc sinh ta đều làm cho hết, vì chúng nói pháp khiến chúng gieo trồng thiện căn, chúng thành thục rồi đem an tríchánh đạo Tam thừa. Nhiên hậu ta mới được ký Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác”. Dạ xoa Trí Cự nguyện làm hình tướng khỉ đột là vì thành thục khỉ đột. Dạ xoa Xả Khát Ái nguyện làm hình tướng dê đen là vì thành thục chúng sinh trụ ở tám nạn. Dạ xoa Ðoạn Lưu nguyện làm hình tướng voi là vì thành thục loài voi. Như vậy một vạn hai ngàn những dạ xoa đại thần thông cư trú ở bốn thiên hạ này, từ xưa đến nay đã phát đủ thứ nguyện vì thành thục chúng sinh, vì cầu Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Ở trước đức Như Lai Câu Lưu Tôn, khi họ cầu Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác là vì thành thục ác dạ xoa.

Ta nguyện đến tận cùng đại kiếp Hiền, nếu những ác dạ xoa kia không lòng từ bi, ưa làm ác pháp, không lòng ân từ... cho đến Ca tra, phú đơn na đoạt tinh khí, làm cuồng loạn lòng người khác, tạo tác lòng bất thiện, giết hại chúng sinh, cho đến tà kiến, làm cho tâm của sát lợi, bà la môn, tỳ xá, thủ đà.v.v... cuồng loạn, tạo sự cuồng loạn trong đường cái, thành ấp, châu huyện, đất nước.v.v... Tạo tác những sự tai quái về tinh tú, nhật nguyệt, ngày đêm đo tính, nửa tháng một tháng, thời tiết, niên tuế đều khiến cho mất điều độ. Ðấu tranh, mưu kế, đói kém, tật bệnh, oán địch phương khác, mưa gió phi thời, cực lạnh, cực nóng... hòa hợp tập khởi những việc ác như vậy. Chúng sinh vui sướng, không bệnh hòa hợp, đối với thiện pháp vì muốn cho vị đất, tinh khí, của cải, ngũ cốc, vật báu, vị đồ ăn, vị pháp, vị giải thoát đều khiến cho diệt mất... có những ác dạ xoa như vậy thì ta sẽ giáo hóa khiến cho thọ giới, rồi đặt vào địa vị bất thoái. Nhiên hậu ta mới chọn lấy ký Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác”. Tôi từ đó về sau thường sinh ở trong những đại dạ xoa ác, làm đại tướng quân. Cho đến loài Ca tra, Phú đơn na cực ác.v.v... tôi dùng pháp ba thừa thành thục, an trí chúng vào địa vị bất thoái. Từ đó về sau thấy quỉ thượng, quỉ trung, quỉ hạ tôi chẳng từng khinh khi. Như thấy hình của chúng, ta biến ra đồng hình với chúng, tùy theo loài mà cùng với chúng nói năng, trù lượng, tiến dần khiến cho chúng vui mừng, đoạn trừ các ác, tạo lập tâm từ bi. Thỏa mãn hy vọng rồi, ta khiến cúng dường Phật, Pháp, Tăng, khiến họ bất thối chuyển. Tùy chỗ có quyến thuộc dạ xoa, tôi sẽ đi đến đó dùng pháp giáo hóa, thị hiện. Tùy theo trú xứ của chúng mà những dạ xoa đó, hoặc thấy ta đến đều chung bạch rằng: “May thay! A Tra Bạc Câu đến!” Do chúng gọi tôi là A Tra Bạc Câu nên tôi tên là A Tra Bạc Câu. Nếu hôm nay người không có pháp của bậc tiên thánh, trụ ở ác giới thường làm hắc nghiệp thì người đó mạng chung rồi, sinh vào ba đường ác, một phần ít chúng sinh sinh ở trong loài người. Nếu người làm tạp nghiệp, khi ở trong Tam Bảoniềm tin thanh tịnh thì người đó do tạp nghiệp nên tạp sinh vào trong những ác dạ xoa, Ca tra, Phú đơn na, ở trong thế giới tăng trưởng bội phần. Tất cả phần bạch pháp của những người đó phương tiện hoại diệt. Do cái ác đó nên hiện nay việc đấu tranh lại tăng trưởng bội phần mà tôi lại chẳng có thể ở mọi lúc đối với ác dạ xoa cho đến ác phú đơn na, dùng lời nói nhu nhuyến đặt chúng vào bạch pháp. Tôi lại chẳng thể, ở mọi lúc đối với Sa môn, Bà la môn, sát lợi, tỳ xá, thủ đà la.v.v... trai gái lớn nhỏ, tiểu nam, tiểu nữ trừ nhiễu loạn cho họ. Tôi lại chẳng thể ở tất cả lúc đối với thành ấp, châu huyện, đất nước, đường cái... trừ nhiễu loạn ở những nơi ấy. Tôi lại chẳng có thể vào tất cả lúc khiến cho tâm và pháp tâm số của các quỷ thần an trímùi vị giải thoát. Thưa thiện nam tử! Tôi nay nhờ lực uy đức của tất cả các đức Phật nên đã được khéo léo nhập vào tâm trí ton hót (siểm) phương tiện của tất cả dạ xoa, ca tra, phú đơn na.v.v... Thưa thiện nam tử! Có Ðà la ni tên là Kim Cương Khư Bà Ta Lý Chư Quỉ Tâm Ðại Bạo Ác Minh Chú. Nếu có người hành trì chú này thì những con gái dạ xoa, cha mẹ dạ xoa, nam nữ dạ xoa, vợ chồng dạ xoa cùng quyến thuộc của chúng, hoặc La xoa, con gái La xoa... cho đến rồng, con gái của rồng, cưu bàn trà, con gái của cưu bàn trà, quỉ bệnh điên, quỉ bệnh sốt rét, hoặc ngày ngày phát... cho đến quỉ bốn ngày phát một lần. Hoặc ca tra, Phú đơn na, con gái ca tra, phú đơn na, cha mẹ của ca tra phú đơn na, nam nữ ca tra phú đơn na, vợ chồng ca tra phú đơn na cùng quyến thuộc của chúng... Tất cả bọn chúng chẳng lại có thể não loạn sát lợi, bà la môn, tỳ xá, thủ đà... cho đến đất nước. Lại nữa, này thiện nam tử! Tùy theo chỗ sở tại, hoặc thành ấp, châu huyện, hoặc bên trong vương cung... cho đến nhà dân mà “Kim Cương Kha Bà Ta Lý Chư Quỉ Tâm Ðại Bạo Ác Minh Chú” này tùy chỗ khai thị, chỗ đó đã có ác dạ xoa, ca tra phú đơn na.v.v... từ trước đến giờ ganh ghét theo đuổi nghiệp bất thiện khiến cho xả bỏ, phát sinh lòng từ bi nhu nhuyến, đối với tất cả chúng sinh khởi lên lòng lợi ích. Nếu tất cả xóm làng nhà cửa bị sự nhiễu loạn của trời rồng, dạ xoa, ca tra phú đơn na.v.v... tất cả tai ách quái lạ của mặt trời mặt trăngtinh tú, sự gia hại của khí độc, sự nhiễu loạn của vật độc và trong thân thể bị các bệnh gió, bệnh vàng da, bệnh âm, bệnh sốt rét hoặc ngày ngày phát hoặc hai ngày, ba ngày, bốn ngày phát một lần, bệnh hủi, ghẻ lở, ho, nhọt đầu đinh, đau bụng, bệnh về chi tiết (các phần thân thể).v.v... làm nhiễu loạn, tất cả đều được diệt trừ. Tôi nguyện cho người, chẳng phải người.v.v... cho đến loài cầm thú siêng năng tu hành bạch nghiệp, đoạn dứt những nỗi sợ hãi, đầy đủ niềm vui sướng, ngày đêm thọ lạc, bố thí, điều phục nhiếp bộ thân miệng mà không giải đãi, siêng tu và ưa cầu đạo trợ Bồ đề - Lại nói tiếp như vầy - Thưa thiện nam tử! Các đức Phật Thế Tôn hoan hỷ gia hộ, cho tôi câu chú thành tựu nghiệp này có thể đoạn trừ tất cả pháp ác nhiễu loạn, chận đứng tất cả phần bất thiện, tăng trưởng tất cả phần pháp thiện. Tôi nay muốn nói câu “Nhất Thiết Chư Ác Kim Cương Kha Bà Ta Lý Ðại Minh Chú” này. Ðức Thích Ca Như Lai sẽ gia hộ cho tôi “Viên âm diễn thuyết”. Nếu tôi viên âm diên thuyết văn tự này thì âm thanh đầy trong tất cả cõi Phật. Như vậy những đại chúng đến đây nghe được văn tự cú nghĩa của viên âm diễn thuyết này đều trở nên vui mừng.

Lúc bấy giờ, đức Thích Ca Như Lai bảo tướng quân Ðại Dạ xoa A Tra Bạc Câu rằng:

- Này thiện nam tử! Chư Phật, chúng ta đã gia hộ ông “Viên âm diễn thuyết Kim Cương Kha Bà Ta Lý Chư Quỉ Tâm Ðại Bạo Ác Ðà la ni chú” này để phá hoại hắc đảng, làm rực sáng bạch pháp. Này thiện nam tử! Ông phải dũng mãnh nói câu minh chú “Kim Cương Kha Bà Ta Lý Chư Ác Quỉ Tâm Ðại Bạo Ác” có thể trừ tất cả nhiễu loạn này để chận đứng tất cả những câu chú ác.

Lúc đó đại dạ xoa tướng quân A Tra Bạc Câu liền đứng dậy, cúi mình chắp tay, hướng về đức Thích Ca Như Lai, dùng âm thanh lớn, làm cho hết cả cõi Phật này đều được cáo tri. Ông liền ở trước đức Phật nói câu chú này:

Ða địa dã tha đậu ma đậu ma (1) Ðà ma đà ma (2) Ðậu ma đậu ma (3) Nhỉ lý na (4) Na la nổ la nhỉ la (5) Cưu tra nhỉ cưu tra nhỉ (6) Ma ha cưu tra nê (7) Tra tra tra chu (8) Ma ha tra tra (9) A bà ta (10) A tỳ a tỳ (11) Lý ni lý ni (12) Ma ha lý ni lý ni (13) Lý nhị lý nhị lý nhị (14) Ðà lý di (15) Lý tỳ ma ha lý tỳ (16) Thủ lâu thủ lâu (17) Ma ha thủ lâu thủ lâu (18) Thủ lâu thủ lâu (19) Ma ha thủ lâu thủ lâu đà (20) Ẩu cữu ma cữu ma (21) Cữu ma na (22) Lý nhị lý nhị (23) Ê lý ê lý (24) Ê lý ê lý (25) Ê lý ê lý (26) Ê lý ê lý (27) Ê lý (28) Nhỉ nhị nhỉ nhị (29) Ê nhỉ ê nhỉ (30) Mẫu nhỉ mẫu nhỉ (31) Bộ địa (32) Lý bả la bà la (33) Sở trá sở trá lộ ca (34) Trá lý gia thị nê thị nê (35) Thị na lý sở bà (36) Thị na thị na lý sở bà (37) Ta bà ha (38).

Lúc đó, tướng quân đại dạ xoa A Tra Bạc Câu nói chú này rồi, liền bạch đức Phật rằng:

- Thưa đức Thế Tôn! Tùy theo chỗ sở tại, hoặc thành ấp cho đến nhà của thứ dân, khi nói câu Kim Cương Kha Bà Ta Lý Gia Ðại Minh chú này, nếu có dạ xoa cho đến ca tra phú đơn na mà lòng chẳng tịnh tín và thân miệng ý chẳng thọ lời dạy răn, chẳng đối với chúng sinh khởi lòng từ bi. Do đó nên hôm nay con lại mạnh dạn nghiêm chỉnh nói câu đại minh chú nữa.

Ông liền ở trước đức Phật mà nói chú rằng:

- Ða địa dã tha á chi (1) Á chi (2) Mẫu nê mẫu nê (3) A kỳ nê hủ hủ (4) Mẫu nê mẫu nê (5) Ma na lý sở bà hủ hủ (6) A ca la đàn trì (7) A sỉ đàn trì (8) A sỉ a sỉ (9) A để (10) Ẩu tra (11) Ế nhỉ (12) Ế nhỉ (13) Ê lý ê lý ê lý ê lý ê lý ê lý ê lý (14) Sỉ sỉ la cữu ma (15) Cữu ma cữu ma cữu ma (16) Ê lý ê lý (17) Nhỉ lý nhỉ lý (18) Ma ha nhỉ lý (19) Tam mẫu đà la nhỉ kha (20) Ha tra ha tra ha tra (21) A la nả dỉ kha (22) Xoa bà kha (23) Tỷ lý địa tỳ (24) Ả bả (25) Ðế thù (26) Bà do (27) A ca xả (28) Ðà đà đà cùng tỳ (29) Bằng cùng tỳ (30) Ác si cùng tỳ (31) Thị hử bà cùng tỳ tát bảng già cùng tỳ (32) La khư cùng tỳ (33) Ta đà ta đẩu cùng tỳ (34) Ta bà ha (35).

Lúc bấy giờ, đại tướng dạ xoa A Tra Bạc Câu nói chú này thì ngay khi đó không có gián đoạn, tất cả trời, rồng, dạ xoa, ca tra phú đơn na đều rất kinh sợï. Người trụ trên đất và hư không cõi Phật này đều run sợ. Trong khoảnh khắc một sát na, tất cả những quỉ như vậy liền ở trước đức Phật, chắp tay, kính ngưỡng nói lên như vầy:

- Nam mô Nhất thiết chư Phật (cung kính tất cả các đức Phật)! Nam mô, nam mô Nhất thiết chư Phật! Những đấng Ðại Bi Tối Thắng nguyện xin thương xót con! Ðại tướng dạ xoa A Tra Bạc Câu nói câu chú vào tất cả lòng quỉ.

 

 

PHẨM THỨ MƯỜI BA:

CÁC ÐỨC PHẬT TRỞ VỀ NƯỚC.

Lúc bấy giờ, tất cả các đức Phật Thế Tôn từ mười phương đến đều đứng dậy, hiện tướng trở về nước. Lúc đó đại chúngdưới đất và ở trên hư không đều run sợ, tất cả đại địa đều chấn động. Từ không trung mưa xuống hoa, ở trong hư không tấu lên trăm ức điệu nhạc, hương đốt, hương bột từ không trung tuông xuống, ánh sáng soi khắp bên trong cõi Phật này. Tất cả đại chúng đều chắp tay. Bấy giờ, chủ thế giới Ta Bà, vua trời Phạm hỏi đức Phật Ðại Chiên Ðàn Hương rằng:

- Thưa đức Thế Tôn! Những chúng sinh đó do thiện căn gì sẽ được đầy đủ? Các đức Phật Thế Tôn dùng bao nhiêu thứ pháp gia hộ chúng sinh vào đời vị lai được pháp môn này sẽ thọ, sẽ trì, sẽ đọc, sẽ ôn tụng và vì người khác sẽ khai thị rộng rãi, sao chép Kinh này, sao chép rồi đem đặt trong nhà?

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn Ðại Chiên Ðàn Hương Như Lai bảo Phạm Thiên vương rằng:

- Ðúng vậy! Này Phạm vương! Tất cả chư Phật gia hộ thân của chúng sinh sáu cõi, điều phục ma đảng, diệt dứt đấu tranh, nhiễu loạn, thành thục chúng sinh, Diệu pháp trụ thế lâu dài, làm thanh tịnh đạo Vô thượng. Như vậy tất cả chư Phật Thế Tôn, các vị Ðại Bồ tát có mười thứ pháp gia hộ chúng sinh ở đời vị lai được pháp môn này mà sẽ thọ trì, đọc tụng, sao chép Kinh, rồi đặt ở trong nhà. Những gì là mười?

- Một là tất cả các đức Phật, các vị Ðại Bồ tát ân cần phó chúc cho tất cả trời, rồng, dạ xoa, Càn thát bà, A tu la, Ca lâu la, Khẩn na la, Ma hầu la già.v.v... luôn phải ủng hộ người thọ trì pháp chẳng khởi lên việc phi pháp, nghiệp thân miệng ý, răn bày thiện pháp, tùy theo sự thọ dụng y phục, ẩm thực... của họ mà luôn khiến cho dồi dào, không bệnh, yên ổn cho đến khi xả thân mạng mình (chết), hộ người trì pháp khiến cho họ không có lỗi lầm.

- Hai là niệm tuệ lạc thuyết sở đắc của người đó hướng đến phương tiện khéo léo không phạm lỗi lầm và ưa muốn tương ứng với ý giác thâm nhẫn đầy đủ, tùy theo sở trụ lòng như hư không, như đất.

- Ba là dùng bốn nhiếp pháp khuyên những tứ chúngchúng sinh khác được trụ ở thiện pháp, thủ lấy thân kiên cố, ba việc thanh tịnh, hành đạo Bồ đề.

- Bốn là được Bảo Tràng tam muội. Ðược tam muội đó thì có thể khéo léo quan sát những cửa tam muội.

- Năm là tùy theo chỗ mạng chung người trì pháp đó mà vô lượng vô số các đức Phật Thế Tôn, các chúng Tỳ kheo, các chúng Bồ tát thường hiện ở trước mặt nuôi dưỡng thuyết pháp

- Sáu là pháp của các đức Phật Thế Tôn đã nói thành tựu văn tự câu nghĩa thì đều được nghe tức là được tất cả pháp tối thắng, không thọ hỷ lạc. Tất cả nghiệp chướng đó tùy theo sát na tối hậu người đó mạng chung, xả thọ, tử thức thì được diệt đúng như pháp giống như tử pháp của A la hán.

- Bảy là đúng như điều hy vọng, theo ý hóa sinh vào cõi Phật thanh tịnh. Các đức Thế Tôn trụ thế ở đó nuôi dưỡng, thường nói giáo pháp Ðại thừa thanh tịnh. Người trì pháp đó đối với đại thừa này không chướng ngại trí, lòng đầy đủ như hư không mà trụ.

- Tám là chẳng bao lâu đối với công đức này đều được đầy đủ.

- Chín là người trì pháp đó chẳng lại sinh ra cõi Phật uế trược, trừ theo bổn nguyện của mình.

- Mười là mau chóng sẽ được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Ðó là mười pháp.

Các đức Phật Thế Tôn dùng mười pháp này gia hộ người trì pháp. Hoặc vào hôm nay hay đời vị lai chánh pháp vi diệu nay sẽ được rực sáng, nếu có người thọ trì pháp môn Ðà la ni này cho đến chỉ sao chép Kinh này đặt yên trong nhà thì tất cả các đức Phật, các vị Ðại Bồ tát sẽ ủng hộ người trì pháp đó, tất cả phiền não đều được giải thoát, tức chính là Ðại Bồ tát vậy.

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn Thích Ca Như Lai bảo Ðế Thích, Phạm Vương, Hộ Thế Thiên Vương rằng:

- Này các thiện nam tử! Những đức Thế Tôn này đều từ khắp mười phương đến hội, thương xót các ông, những chúng sinh nên khiến cho ngoại vật của thế giới này thanh tịnh, thành thục tất cả chúng sinh, hiển thị hạnh Bồ đề, đẩy lùi ma đảng, kiến lập pháp tràng, hiển thị tất cả Phật sự, giống Tam Bảo chẳng đoạn tuyệt, tiêu diệt tất cả bệnh, ngăn chặn tất cả ác, ủng hộ tất cả bố úy (?), đoạn trừ tất cả ác kiến, vào đạo Bồ đề, đủ đầy mười lực của Như Lai, hết tận tất cả nghiệp phiền não, nói lên tướng Ðại hy hữu hiếm có này, từ xưa chưa từng có, xưa chưa từng nghe Ðà la ni câu nghĩa thậm thâm, ủng hộ nhà cửa, thành ấp, đất nước cho đến ủng hộ cả bốn thiên hạ này. Hộ trời, rồng, người, chẳng phải người.v.v... và ngũ cốc, dược thảo, hoa trái. Hộ thầy nói pháp và người nghe pháp. Vì được Vô trước Ðà la ni nên vào trí như hư không, do tất cả pháp thức, được trí Nhất thiết trí.

Lại nữa, này thiện nam tử! Do pháp môn này nên tất cả các đức Phật y vào trí Ðại bi. Do mười thứ pháp ủng hộ nên mỗi một những vật trong cõi Phật này đều tăng trưởng, chẳng hoại. Này thiện nam tử! Tất cả các đức Phật, Bồ tát ở khắp cõi Phật này đều thọ dụng không chỗ trống rỗng khiếm khuyết, hộ trì tất cả thiện pháp. Người thọ sinh ở tất cả cõi Phật, đối với cõi này sẽ khởi lên sự tôn trọng lễ bái tưởng như tháp miếu, tưởng như đại sư. Do vì người thọ sinh ở cõi Phật này có thể khéo léo kiến lập tất cả pháp, diệt trừ nghiệp chướng, tội ngũ nghịch, việc đầy đủ pháp bất thiện, được kết quả chẳng ưa thích tận diệt không còn mà trụ ở thiện pháp. Này thiện nam tử! Các đức Phậtcõi Phật này đều làm hạnh nghiệp của bậc Ðại trượng phu. Này thiện nam tử! Các ông nên cung kính thọ trì pháp này. Nếu có người tại giaxuất gia thọ trì pháp này và tin pháp này thì các ông hãy nên thủ hộ những người này, các ông sẽ được lợi ích, an lạc.

Lúc bấy giờ, đức Như Lai Câu Tô Ma Tràng, đối với pháp môn này, tán dương công đức mà nói kệ như vầy:

Vàng ròng đầy các cõi

Cúng dường các Thế Tôn

Chẳng bằng trì Kinh ấy

Phước đức vô lượng biên.

Bấy giờ, đức Như Lai Thắng Bảo Cái cũng lại như vậy, khen ngợi vô lượng công đức của Kinh này mà nói kệ như vầy:

Nếu đem nhiều vàng báu

Cúng Phật nhiều không lường

Người nhận được phước này

Chẳng bằng người trì Kinh.

Khi đó đức Như Lai Tu Di Phong, cũng lại như vậy, khen ngợi công đức không lường của Kinh này mà nói kệ như vầy:

Nhiều hoa cái tối thượng

Giăng liền che hư không

Thí dâng khắp chư Phật

Lòng tịnh hỷ cúng dường.

Khi mạt pháp sắp hết

Nhiều những việc kinh hoàng

Lượng phước trì Kinh ấy

Chư Phật nói chẳng cùng.

Bấy giờ, đức Thích Ca Như Lai cũng lại như vậy, tán dương công đức vô lượng của Kinh này mà nói kệ như vầy:

Nếu trước Mâu Ni lòng tịnh khởi

Ðốt bấc đèn như Tu di sơn

Trong vô lượng câu chỉ đại kiếp

Vui vẻ đem đèn này cúng dường

Lại có người khác ưa phước đức

Mong câu vô chướng giải thoát thân

Khi pháp sắp tận, dùng Kinh ấy

Vì người tin nói, phước này hơn (phước kia).

Bấy giờ, đức Như Lai A Súc, cũng lại như vậy, xưng tán công đức không lường của kinh này mà nói kệ như vầy:

Nếu tu trì nhẫn tuệ

Hạnh tinh tấn khởi luôn

Thiền định nhiếp thân hạnh

Dùng đại trí rộng hơn.

Khi mạt thế tranh đấu

Trì pháp ấn này thường

Tu nhẫn, tấn không sánh (không ai sánh)

Trí tuệ không ai bằng.

Lúc đó, đức Như Lai Tịnh Tam Muội Dũng Lực, cũng lại như vậy, khen ngợi công đức không lường của kinh này mà nói kệ như vầy:

Kinh pháp này khai thị

Thọ trì, chép quyển Kinh

Trao cho người tương ứng

Lại hay đọc tụng thường

Lọng hoa, quần áo đẹp

Ðốt hương để cúng dường

Những công đức đạt được

Không có thể đo lường.

Lúc bấy giờ, vô lượng vô số các đức Phật Thế Tôn tán dương công đức của Kinh này lợi ích vô lượng vô biên. Ðã khen ngợi xong, chư Phật liền bảo với Ðế Thích, Phạm Vương, Hộ Thế Thiên Vương rằng:

- Này các thiện nam tử! Các ông, tất cả hãy thọ trì pháp môn này! Tận diệt hết phiền não chướng, tất cả nghiệp chướng. Mạt thế về sau, nếu có chúng sinh chỉ nghe Kinh này thôi cũng tận diệt hết phiền não chướng, tất cả nghiệp chướng.

Ðức Phật nói Kinh này rồi, tất cả thế gian, thiện nam tử được niềm tin trời, người, A tu la, Càn thát bà.v.v... nghe lời nói của đức Phật, hoan hỷ phụng hành.

KINH BẢO TINH ÐÀ LA NI

- Quyển thứ mười - hết.

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12786)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12723)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11771)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11746)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12356)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12399)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19844)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 11979)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 12005)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16907)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12689)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 15075)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 16137)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12908)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12259)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11937)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11942)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13171)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16525)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13243)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12510)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11837)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19879)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11176)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11275)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10414)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11110)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 10983)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 10053)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11765)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
(Xem: 11650)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11974)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11126)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11362)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12082)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12574)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10779)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 18001)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11739)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9963)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 11260)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 13182)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 16589)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 11869)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10910)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 11854)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 28835)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12388)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 53093)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35500)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 16101)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 12202)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12334)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 11411)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17208)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14989)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 14633)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13863)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11731)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15078)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant