Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Dhammika Sutta (An An 6.54 – Pts: {A Iii 364})

23 Tháng Ba 201513:04(Xem: 11103)
Kinh Dhammika Sutta (An An 6.54 – Pts: {A Iii 364})
Kinh DHAMMIKA SUTTA (AN VI.54)

Tỳ Kheo Ni Giải Nghiêm dịch từ bản Pali-English của Andrew Olendzki


Kinh Dhammika SuttaThuở xưa[1] khi các người đi buôn bằng đường biển dong thuyền ra biển, họ mang theo một con chim để nhắm hướng đất liền. Khi thuyền ở chỗ không thấy đất liền, họ thả con chim ra; con chim bay về các hướng đông, tây, nam, bắc, trên, dưới và xung quanh. Và nếu không thấy đất liền, con chim bay trở lại tàu; còn nếu thấy đất liền gần đó, nó sẽ đi luôn thật. [2]

...

Ngày xưa[3] có một cây vả chúa tên là Kiên Định, thuộc về vua Koravya; cây có năm cành rộng cho bóng mát rất dễ chịu. Tàng cây toả rộng cả trăm dặm, rễ lan ra chừng bốn mươi dặm. Quả của cây này rất tuyệt: lớn như cái thúng - mọng ngon như vậy – và trong như mật ong.

Vua và các cung nữ hưởng một phần; quân đội hưởng một phần; dân trong thành và trong thôn làng hưởng một phần; các bà la mônnhà tu khổ hạnh hưởng một phần; chim và thú hưởng một phần. Không ai canh giữ quả của cây vả này cả, và cũng không ai hãm hại lẫn nhau vì quả của cây này.

Nhưng có một người kia đi đến, ăn quả của cây Kiên Định cho bằng thích, bẻ gãy cành rồi bỏ đi. Vị thiên nữ trú nơi cây Kiên Định thầm nghĩ: “Thật kinh khủng, thật lạ lùng, có kẻ lại xấu xa cho đến nổi dám ăn quả cây Kiên Định cho bằng thích, bẻ gãy cành rồi bỏ đi! Vậy để cây Kiên Định không còn ra quả nữa xem sao cho biết?” Và cây vả Kiên Định không còn ra quả nữa.

Thế rồi vua Koravya đến chỗ Thiên Chủ Đế Thích (Sakka), gặp ngài và nói: “Chắc Ngài đã biết rồi, Kiên Định - cây vả chúa - không còn ra trái nữa?” Đế Thích bèn hoá hiện làm như có một trận mưa to gió lớn ập xuống, làm cây vả chúa Kiên Định ngả xuống, trốc gốc hoàn toàn. Vị thiên trú nơi cây Kiên Định buồn rầu, khóc lóc, đứng khóc một bên cây, nước mắt đầm đìa.

Thiên Chủ Đế Thích đi đến chỗ vị thiên đang đứng, đến đó rồi nói rằng: “Này thiên nữ, cớ sao mà bà lại buồn rầu, khóc lóc, đứng một bên cây nước mắt đầm đìa?”

“Thưa Ngài, đó là vì một trận mưa to gió lớn vừa ập xuống, làm chỗ ở của tôi bị ngả xuống, trốc gốc hoàn toàn.”

“Này thiên nữ, có phải bà đang trì Pháp của loài cây khi việc này xảy ra không?”

“Nhưng thưa Ngài, thế nào là một cái cây trì Pháp của loài cây?”

“Như thế này, thiên nữ: những người cắt rễ lấy rễ cây; những người lột vỏ cây lấy vỏ; những người hái lá lấy lá; những người hái hoa lấy hoa; những người hái trái lấy trái – không một điều nào đủ là cái cớ để cho một vị thiên chỉ nghĩ đến mình hay rầu rĩ cả. Này thiên nữ, một cái cây trì Pháp của loài cây là như vậy.”

“Vậy thì thưa Ngài, con không đang trì Pháp của loài cây khi mưa to gió lớn ập xuống, làm chỗ ở của tôi bị ngả xuống, trốc gốc hoàn toàn.”

“Nếu như vậy thì, thiên nữ, nếu như bà trì Pháp của loài cây, chỗ ở của bà có thể sẽ hoàn nguyên như cũ.”

“Thưa Ngài, tôi sẽ xin trì Pháp của loài cây! Mong trú xứ của tôi được hoàn nguyên như cũ.”

Khi ấy, Thiên Chủ Đế Thích hoá hiện làm như có một trận mưa to gió lớn ập xuống, nâng cây vả chúa Kiên Định dậy, rễ cây lành lặn hoàn toàn.

...


Chú thích của Andrew Olendzki:

[1] Đoạn này cũng có trong DN 11. - Ed

[2] Từ Pali ở đây là tathagatako (E.M. Hare dịch trong bản dịch của PTS là "gone for good"; Andrew Olendzki dich là “truly gone”,) câu chuyện này giúp chúng ta hiểu thêm rất nhiều vì sau Đức Phật lại dùng danh hiệu “Tathagata” để tự xưng.

Tên của Ngài là Siddhattha; là một sa môn khổ hạnh Ngài lấy tên của tộc họ bên thân mẫu của Ngài là Gotama; Ngài được người đương thời biết đến như một bậc hiền trí dưới tên của tộc họ của thân phụ ngài, Sakyamuni; và khi giác ngộ, ngài được gọi là Buddha, Bậc Giác Ngộ. Những người theo ngài thường gọi Ngài là Bhagavant, hay “Thế Tôn,” nhưng tên mà ngài luôn dùng để tự xưng lại là Tathagata (Việt dịch là Như Lai.)

Tathagata là một từ khó dịch ra tiếng Anh. Tatha nghĩa là ‘như vậy,’ (so, thus, in this way); và gata là động tính từ của động từ đi, và có nghĩa là “đã đi rồi”, “khứ” (gone.) Chúng ta thường thấy từ này được dịch ra tiếng Anh là “Thus-gone” hay “the Thus-Gone” (‘đã đi như vậy’, ‘bậc đã đi như vậy’ tức là ‘như khứ’.) Luận sư Buddhaghosa (Phật Âm) liệt kê 8 cách dịch khác nhau cho từ này (Digha Atthakatha 1.59), trong đó đưa ra những cách phân tích gốc từ rất sáng tạo.

Tôi (Andrew Olendzki) thừa nhận chưa bao giờ thật sự hiểu ý nghĩa từ Tathagata cho đến khi tôi đọc câu chuyện này. Với hình ảnh con chim được thả ra để tìm bờ bên kia, nhiều việc trở nên sáng tỏ.

Trước hết, chúng ta cần nhận ra 2 cách thành ngữ này được sử dụng: một chỉ cho đức Phật như là người không còn sinh lại nữa, và hai là diễn tả tâm thức của người đã giác ngộ vẫn còn trụ thế đối với các trần.

Có lúc một vị A La Hán qua đời, Mara – như một đám mây đen – đi tìm xem tâm thức của vị A La Hán đang tái lập (sinh) ở đâu. Trong trường hợp đó, đức Phật nói rằng tâm thức của A La Hán “không bám trụ vào đâu nữa” (ví dụ SN 22.87.) Theo ý nghĩa này, đức Phật rõ ràng dùng danh hiệu “Tathagata” với ý nghĩa ngài sẽ không còn phải sinh lại nữa – như con chim rời chiếc thuyền không còn quay trở lại, tâm thức của ngài không đậu lại bất cứ cảnh giới nào để bị ràng buộc vào một thân khác.

Nhưng cũng có một nghĩa khác, trong đó thành ngữ Tathagata diễn đạt một cách thích đáng bản chất của tâm đã giải thoát ở trong hiện đời. Khi người hỏi cố tìm cách để bắt đức Phật phải trả lời tâm thức ngài có còn sau khi chết không, ngài quở họ qua việc đáp rằng chính ngay trong đời này tâm thức của Tathagata còn không thể dò được, vì không nằm trong phạm trù đo lường thì làm sao các khái niệm còn, không còn có thể áp dụng được để đo lường tâm thức Như Lai (ví dụ SN 1074.) Tâm bậc giác ngộ được nói là không còn bám trụ vào bất cứ gì trên đời (bất cứ đối tượng nào của thức) – như một con chim đã thoát, không còn quay trở về bám đậu vào thuyền nữa.

Chú thích của người dịch tiếng Việt: từ Như Lai dịch hay hơn là từ tiếng Anh vì, bao hàm được ý nghĩa vô thỉ vô chung (vô khư vô lai). Cách giải thích của Olendzki chỉ nói được một mặt là ‘đi hẳn, không quay trở lại’ nhưng không giải thích chữ ‘such’, ‘so’, ‘in this way’ (Như.)

[3] Đây có thể là một câu chuyện có thật – có lẽ Kiên Định là tên của cả hành tinh, không phải chỉ là một cái cây thần thoại. Làm sao chúng ta có thể giải thích khác hơn về đức nhẫn lớn lao và sự làm lợi ích không ngừng của trái đất trước sự tham lamphá hoạicon người đã làm đối với trái đất? Tôi (Olendzki) nghĩ rằng Gaia, nữ thần ngự trị trái Đất dễ thương của chúng ta đã được Sakka (Đế Thích) dạy cho bài học này từ thuở xa xưa, và với đức Đại Nhẫn đã chịu đựngtha thứ cho những điều tệ hại nhất mà chúng ta đã làm để đáp lại những ân huệ của bà. Nếu đó là sự thật, bà sẽ không báo cho chúng ta biết khi chúng ta đã đi quá xa – vì cho rằng đó là phần trách nhiệm của chúng ta.

Như mọi chuyện Phật giáo khác, truyện này mang nhiều ý nghĩa. Không phải ngẫu nhiên mà cây đại thụ này có năm nhánh, và từ dùng cho mỗi phần quả là khandha - từ dùng để chỉ cho năm uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức.) Người ăn thoả thích quả của mình khởi lòng tham, và sự khát khao, sự bẻ cành của người này dụ cho sân, giận và ghét bỏ. Đây là hai trong ba gốc rễ của độc từ đó mà các hành động bất thiện phát sinh (gốc độc thứ ba là si – có mặt khi tham, sân có mặt.) Do đó, toàn bộ hình ảnh này đại diện cho một người bị người khác đối xử xấu, hay phải đối diện với sự nhen nhúm của các kết sử của chính mình xúi giục mình làm hại.

Xin để ý câu truyện không dạy “người xấu ác” về sự rồ dại của mình, vì thường ta không thể làm gì để tránh những kẻ này, hay những khuynh hướng này ở trong ta. Câu truyện nhắm dạy về phản ứng của chúng ta trước những lỗi lầm. Sakkha (Đế Thích) cho rằng phản ứng nóng nảy, hờn dỗi trước sự lăng mạ là đứng ở chỗ coi mình là trung tâm điểm, và câu trả lời duy nhất thích hợp trong trường hợp này là lòng từ và sự rộng lượng - đối với mình cũng như với kẻ khác. Như Kinh Pháp Cú cũng đã dạy: “Hận thù diệt hận thù, đời này không từng có. Từ bi diệt hận thù, là định luật nghìn thù. [Dhp 5].

Bài pháp này được giảng cho Dhammika, một tì khưu than thở về cách đối xử của một số người. Đức phật soi lại tình trạng cho Dhammika, cho thấy bản thân ông không đối xử tốt với các bạn đồng tu. Đây là một dịp để đức Phật dạy cho Dhammika, bằng câu chuyện ẩn dụ, “pháp của một sa môn” được tóm tắt trong câu “không sỉ nhục lại người đã sỉ nhục mình, không giận lại người giận mình, không xúc phạm lại người đã xúc phạm mình.”

(TKN Giải Nghiêm dịch từ bản Pali-English của Andrew Olendzki. Xin chỉ dùng để phát tặng không, không bán.)
(Source: www.dieukhong.org)


Nguyên văn bản tiếng Anh:
AN 6.54 PTS: A iii 366
Dhammika Sutta:

Dhammika (excerpt) translated from the Pali by Andrew Olendzki © 2005–2012

...

In[1] ancient times when seafaring merchants put to sea in ships, they took with them a bird to sight land. When the ship was out of sight of land, they released the bird; and it flew eastward and westward, northward and southward, upward and all around. And if the bird saw no land, it returned to the ship; but if the bird sighted land nearby, it was truly gone.[2]

...

Once upon a time[3] there was a royal fig tree called Steadfast, belonging to king Koravya, whose five outstretched branches provided a cool and pleasing shade. Its girth extended a hundred miles, and its roots spread out for forty miles. And the fruits of that tree were indeed great: As large as harvest baskets — such were its succulent fruits — and as clear as the honey of bees.

One portion was enjoyed by the king, along with his household of women; one portion was enjoyed by the army; one portion was enjoyed by the people of the town and village; one portion was enjoyed by brahmans and ascetics; and one portion was enjoyed by the beasts and birds. Nobody guarded the fruits of that royal tree, and neither did anyone harm one another for the sake of its fruits.

But then a certain man came along who fed upon as much of Steadfast's fruits as he wanted, broke off a branch, and wandered on his way. And the deva who dwelled in Steadfast thought to herself: "It is astonishing, it is truly amazing, that such an evil man would dare to feed upon as much of Steadfast's fruits as he wants, break off a branch, and then wander on his way! Now, what if Steadfast were in the future to bear no more fruit?" And so the royal fig tree Steadfast bore no more fruit.

So then king Koravya went up to where Sakka, chief among the gods, was dwelling, and having approached said this: "Surely you must know, sire, that Steadfast, the royal fig tree, no longer bears fruit?" And then Sakka created a magical creation of such a form that a mighty wind and rain came down and toppled the royal fig tree Steadfast, uprooting it entirely. And then the deva who dwelled in Steadfast grieved, lamented, and stood weeping on one side with a face full of tears.

And then Sakka, chief among the gods, went up to where the deva was standing, and having approached said this: "Why is it, deva, that you grieve and lament and stand on one side with a face full of tears?" "It is because, sire, a mighty wind and rain has come and toppled my abode, uprooting it entirely."

"And were you, deva, upholding the dhamma of trees when this happened?" "But how is it, sire, that a tree upholds the dhamma of trees?"

"Like this, deva: Root-cutters take the root of the tree; bark-strippers take the bark; leaf-pickers take the leaves; flower-pickers take the flowers; fruit-pickers take the fruits — and none of this is reason enough for a deva to think only of herself or become morose. Thus it is, deva, that a tree upholds the dhamma of trees."

"Then indeed, sire, I was not upholding the dhamma of trees when the mighty wind and rain came and toppled my abode, uprooting it entirely." "If it were the case, deva, that you were to uphold the dhamma of trees, it may be that your abode might be as it was before." "I will indeed, sire, uphold the dhamma of trees! May my abode be as it was before!"

And then Sakka, chief among the gods, created a magical creation of such a form that a mighty wind and rain came down and raised up the royal fig tree Steadfast, and its roots were entirely healed.

...

Notes

1.
This passage also appears at DN 11. — Ed.
2.
The word used here for "truly gone" is tathagatako (translated by E.M. Hare in the PTS edition as "gone for good"), and this story helps us considerably in understanding how the Buddha used the epithet "Tathagata" to describe himself.

His given name was Siddhattha; as a wandering ascetic he went by his mother's clan name, Gotama; he was known throughout his world as the sage of his father's family, or Sakyamuni; and when enlightened he became known as Buddha, the Awakened One. His followers most often referred to him as Bhagavant, or "Blessed One," but the name he almost always used for himself was Tathagata.

Tathagata has always been an awkward word to translate. Tatha on its own means something like "so," "thus," or "in this way"; and gata is the past participle of the verb to go, and simply means "gone." We therefore often find the phrase translated in the texts as "Thus-gone" or "the Thus-Gone one." The commentator Buddhaghosa lists eight different ways the word can be construed (Digha Atthakatha 1.59), and in the process engages in some characteristically creative etymology.

I admit to having never really understood the import of the term Tathagata — until I came across this story. With the image of the bird released by the sailors, searching for land upon which to alight, a number of things began to fall into place.

To begin with we should recognize two ways the expression is used: one referring to the Buddha as a being who will no longer be reborn, and the other describing how the consciousness of an awakened person still in this world relates to the object of experience.

Sometimes when one of the arahants passes away, Mara like a dark cloud can be seen searching for where their consciousness has become re-established (i.e., reborn). In such cases, the Buddha says of the arahant that their consciousness is "not stationed anew anywhere" (e.g., SN 22.87). In this sense the Buddha is clearly using the epithet "Tathagata" to mean that he will not be reborn again — like the bird leaving the ship without returning, his consciousness does not alight again in any of the worlds to become re-bound with another body.

But there is also a sense in which the phrase aptly describes the nature of the awakened mind here in this life. When his questioners try to pin the Buddha down about whether his consciousness survives after death, he rebukes them by saying that even here and now the consciousness of a Tathagata is untraceable, since there is no means of measuring or knowing it (e.g., Sn 1074). The awakened mind is said to be unattached to anything in the world — like a bird that does not alight upon and thus get bound to any object of experience.

In fact learning to un-attach the mind from its fetters is a good deal of what insight meditation training is all about. The Satipatthana Sutta, for example, (the main text that gives instructions for insight meditation) states that when practicing mindfulness properly a person "abides independent, not clinging to anything in the world" (MN 10). The householder Anathapindika, just before his death, received instructions from Sariputta urging him to train himself thus: "I will not cling to what is seen, heard, sensed, cognized, encountered, sought after, and examined by the mind; my consciousness will not be dependent on any of that" (MN 143).

All this combines to suggest that a crucial aspect of the Buddha's teaching is the notion of consciousness being unattached to mental or physical objects. In moment-to-moment practice this means letting go of attachments and letting experience be simply what it is. Perhaps with proper practice we can live as a bird freely circling the ship of our body and our world, rather than as one imprisoned in a cage on its deck.

3.
Perhaps this is a true story — perhaps Steadfast is a name for the entire planet, not just a mythological tree. How else might we explain the earth's great forbearance and continued beneficence in the face of the rapacity and destruction we have wrought upon her? I think Gaia, the deity inhabiting the abode of our lovely Earth, was taught this lesson by Sakka in ancient times, and has with great patience and dignity put up with the worst we can render. If this is true, then she will not give us a sign when we have gone too far — perceiving this is our own responsibility.

Like every Buddhist story, this one works on many levels simultaneously. It is no accident that the great tree has five branches, or that the word used for each portion is khandha — the term designating the five aggregates of form, feeling, perception, formations and consciousness. The man eating his fill of fruit is manifesting greed, craving or desire, and his breaking of the branch represents hatred, anger or aversion. These are two of the three poisonous roots out of which all unwholesome action arises (the third — ignorance — is always present when others occur). Thus the entire image is representative of a person being wronged by another or facing the eruption of their own latent tendencies for harmful action.

Notice that the story does not teach the "evil man" the folly of his ways, since there is often nothing one can do to avoid such people or such inclinations in oneself. The teaching is more about our response to transgression. Sakka's point is that it is self-centered to react petulantly to such an affront, and that the only suitable response is with kindness and generosity — to oneself as well as to others. As the Dhammapada so aptly says, "Never at any time in this world are hostilities resolved by hostility; but by kindness they are resolved — this is an eternal truth" [Dhp 5].

This teaching is given to Dhammika, a monk who complains of his treatment by certain laypeople. The Buddha reflects the situation back upon Dhammika, who as it turns out does not treat his fellow monks very well. It is an occasion to teach Dhammika, with the help of this story, the "dhamma of a recluse," which boils down to "not returning the insult of the insulter, the anger of the angry or the abuse of the abuser."








Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 43972)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 43044)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366, Đoàn Trung Còn và Nguyễn Minh Tiến dịch
(Xem: 49039)
Có một lúc, đức Phật ở trong núi Kỳ-xà-quật gần thành Vương Xá, cùng với các vị đại tỳ-kheo mười hai ngàn người, đại Bồ Tát là tám mươi ngàn người.
(Xem: 39874)
Bấy giờ, đức Thế Tôn ở giữa đại chúng, vì đại chúngthuyết giảng giáo pháp nhiệm mầu, trừ sạch bốn điên đảo, khiến cho được rõ biết các pháp lành...
(Xem: 53809)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, lúc mới Chuyển pháp luân độ ông A-nhã Kiều-trần-như, đến khi thuyết pháp lần cuối cùng độ ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 36842)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng. Nếu thấy các tướng thật chẳng phải tướng tức là thấy Như Lai.
(Xem: 40834)
Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: "Về phương đông, cách đây vô số cõi Phật nhiều như số cát sông Hằng, có một thế giới tên là Tịnh Lưu Ly.
(Xem: 49748)
Lúc ấy, Bồ Tát Vô Tận Ý từ chỗ ngồi đứng dậy, vén tay áo bên vai mặt, quỳ xuống chắp tay cung kính bạch Phật rằng...
(Xem: 47343)
Thế Tôn thành đạo dĩ, tác thị tư duy: “Ly dục tịch tĩnh, thị tối vi thắng.” Trụ đại thiền định, hàng chư ma đạo. Ư Lộc dã uyển trung...
(Xem: 27763)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 25872)
Quyển Kinh Lời Vàng này nguyên danh là "Phật Giáo Thánh Kinh" do nữ Phật tử Dương Tú Hạc biên trước bằng Hán Văn (người Trung Hoa).
(Xem: 29904)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27184)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 24773)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 21335)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23234)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 23894)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22824)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 29595)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20650)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 34191)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 24693)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30051)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20236)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20416)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15152)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 23917)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
(Xem: 34087)
Tiểu Bộ Kinh - Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
(Xem: 24018)
Quy mạng Lô Xá Na, Mười phương Kim Cương Phật. Ðảnh lễ đức Di Lạc, Sẽ hạ sanh thành Phật. Nay tụng ba tựu giới, Bồ Tát đều cùng nghe.
(Xem: 29209)
Tôi nghe như vầy: Một thời Thế-tôn, châu du giáo hóa các nước đến thành Quảng-nghiêm, ở nghỉ dưới cây Nhạc-âm, cùng với tám ngàn vị đại tỳ-kheo...
(Xem: 60176)
Bồ TátVô Tận Ý Khi bấy giờ chăm chỉ đứng lên Bèn trịch vai hữu một bên Chắp tay cung kính hướng lên Phật đài
(Xem: 27630)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 68759)
Chúng sanh đây có bấy nhiêu Lắng tai nghe lấy những điều dạy răn Các ngươi trước lòng trần tục lắm Nên kiếp nầy chìm đắm sông mê
(Xem: 24544)
Một thuở nọ Thế Tôn an trụ Xá Vệ thành Kỳ Thụ viên trung Mục Liên mới đặng lục thông Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm luân.
(Xem: 26382)
Lăng-già (Lanka) là tên núi, núi này do sản xuất châu Lăng-già nên lấy tên châu mà gọi tên núi. Núi nằm tại biển Nam là chỗ ở của Dạ-xoa.
(Xem: 20831)
Lư hương xạ nhiệt, Pháp-giới mông huân. Chư Phật hải hội tất diêu văn, Tùy xứ kiết tường vân
(Xem: 20079)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phảng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 27575)
Làm người Phật tử ở đời Đêm ngày tụng niệm những lời dạy khuyên Tám điều giác ngộ kinh truyền Ghi lòng tạc dạ tinh chuyên tu hành
(Xem: 46466)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 25604)
Phụng dịch theo bản đời Đường của Ngài Thiệt Xoa Nan Đà. Tham khảo các bản dịch đời Ngụy, Tống và bản dịch Anh Ngữ của Suzuki. - Dịch Giả: Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 29286)
VIMALAKĪRTINIRDEŚA - SŪTRA - Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết - Đường Huyền Trang dịch - bản dịch Việt: Tuệ Sỹ
(Xem: 189066)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi tam-bảo
(Xem: 27466)
Thắng Man Phu nhân điển hình cho phụ nữ thực hành Bồ tát đạo bằng cung cách trang nhã, từ ái, khiêm cung. Môi trường thực hành bao gồm từ giới hạn thân thuộc...
(Xem: 31160)
Kinh Pháp Cú (Kinh Lời Vàng), The Path of Truth - Việt dịch: Hòa Thượng Thích Minh Châu - Họa sĩ: Mr. P. Wickramanayaka (vẽ theo bản tiếng Anh mà HT Thích Minh Châu dịch) - Vi tính: Tâm Tịnh
(Xem: 33181)
Tích truyện Pháp Cú - Thiền viện Viên Chiếu - Nguyên tác: "Buddhist Legends", Eugène Watson Burlingame
(Xem: 24041)
Sau 45 năm thuyết pháp, những lời giảng daỵ của Đức Phật không những không bị quên lãng, thất lạc mà còn được lưu giữ, truyền bá mãi đến ngày nay...
(Xem: 25637)
Ta Bà là chốn tạm ở thôi Cửa không mau phải hồi đầu lại Hai sáu nguyện vương tiêu tai chướng Ba ngàn hoá Phật chứng lòng thành
(Xem: 26724)
Cuộc đối thoại đầy đạo vị hứng thú dĩ nhiên được truyền tụng khắp nơi trong giới Phật giáo cũng như ngoài nhân gian. Về sau, vào thế kỷ đầu sau Tây lịch, sợ để khẩu truyền lâu ngày
(Xem: 36685)
Ở phương Ðông cách đây hơn mười căn dà sa cõi Phậtmột thế giới tên là Tịnh Lưu Ly. Ðức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai
(Xem: 27359)
Lúc Đức Phật Thích-ca chứng đắc, Chuyển bánh xe chánh pháp độ sanh, Kiều-trần-như được duyên lành, Năm anh em họ viên thành lý chân,
(Xem: 30390)
Phật Thùy Ban Niết Bàn Lược Thuyết Giáo Giới Kinh (Kinh Di Giáo) - Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0389 - Cưu Ma La Thập dịch Hán; HT. Thích Trí Quang dịch Việt
(Xem: 37330)
Một thời Ðức Phật ở nước Xá Vệ, trong vườn Cấp Cô Ðộc, cây của thái tử Kỳ Ðà, cùng với các đại Tỳ Kheo Tăng... Thích Minh Định dịch
(Xem: 23911)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Kỳ Thọ Cấp Cô Độc gần thành Xá Vệ, với đại chúng khất sĩ gồm một ngàn hai trăm năm mươi vị. Hôm ấy vào giờ khất thực, Bụt mặc áo và ôm bát đi vào thành Xá Vệ.
(Xem: 37004)
Khuyến phát Bồ Đề Tâm văn; Âm Hán Việt: Cổ Hàng Phạm Thiên Tự Sa môn Thật Hiền soạn; Dịch: Sa môn Thật Hiền chùa Phạm Thiên Cổ Hàng soạn
(Xem: 27628)
Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm Kinh - Năm trăm Danh Hiệu Phật và Bồ Tát Quán Thế Âm
(Xem: 28350)
Công Phu Khuya
(Xem: 24173)
Nói một cách vắn tắt, sự xuất hiện của Duy-ma-cật là xu hướng khẳng định vai trò tích cực của chúng đệ tử tại gia trong giáo pháp của Phật, về các mặt hành đạo cũng như hóa đạo.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant