Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phẩm Tám: Phật Sự

18 Tháng Năm 201000:00(Xem: 6871)
Phẩm Tám: Phật Sự
KINH GIẢI THÂM MẬT
HT. Thích Trí Quang dịch giải 23.10.1988 PL 2532
Đệ Tử Thượng Thiện Hạ Thanh, Long Beach CA, USA Ấn Tống

Phẩm tám: Phật Sự (169)

Bấy giờ đại bồ tát Mạn thù (170) thưa Phật: Bạch đức Thế tôn, như đức Thế tôn nói pháp thân Như lai, vậy pháp thân Như lai có những sắc thái gì? Đức Thế tôn dạy đại bồ tát Mạn thù: Thiện nam tử, khéo tu rốt ráo (171) các độ của các địa mà hoàn thành chuyển y (172) , thì (chuyển y) đó là sắc thái của pháp thân Như lai. Sắc thái này vì hai lý do nên bất khả tư nghị, đó là siêu việt hý luậnsiêu việt thi vi -- mà chúng sinh thì hý luận và thi vi (173) . Bạch đức Thế tôn, chuyển y của Thanh vănĐộc giác được gọi là pháp thân không? Thiện nam tử, không. Bạch đức Thế tôn, vậy nên gọi là gì? Thiện nam tử, nên gọi là giải thoát thân. Do giải thoát thân nên nói Thanh văn Độc giác cùng với Như lai rất bình đẳng (174) , nhưng do pháp thân nên có khác biệt. Pháp thân Như lai khác biệt là vì có vô lượng công đức (175) vừa tối thắng vừa khác biệt, toán số ví dụ không thể diễn tả.

Đại bồ tát Mạn thù lại thưa Phật: Bạch đức Thế tôn, chúng con nên hiểu như thế nào về trạng huống sinh khởi của đức Thế tôn? Đức Thế tôn dạy đại bồ tát Mạn thù: Thiện nam tử, hóa thân Như lai mà động tác thì cũng như thế giới sinh khởi mọi thứ; (hóa thân ấy) được mọi công đức của Như lai trang sức và duy trì. Ông nên biết hóa thân thì có sinh khởi, pháp thân thì phi sinh khởi. Bạch đức Thế tôn, chúng con nên hiểu như thế nào về phương tiện khéo léo của hóa thân Thế tôn đã thị hiện? Thiện nam tử, khắp cả cõi Phật của Như laiđại thiên thế giới này, ở trong vương gia tăng thượng mà ai cũng công nhận hay trong gia đình đại phước mà ai cũng công nhận, Như lai cùng lúc (176) vào thai, đản sinh, lớn lên, hưởng dục, xuất gia, thị hiện khổ hạnh, rồi bỏ khổ hạnhthành đẳng chánh giác, thị hiện với thứ tự như vậy thì gọi đó là phương tiện khéo léo của hóa thân Như lai thị hiện (177) .

Lược Giải.-

Đoạn D1 này có 2 đoạn nhỏ: một nói về pháp thân, một nói về hóa thân.
 
 

Nói Về Kinh Và Luật

Chính Văn.-

Đại bồ tát Mạn thù thưa Phật: Bạch đức Thế tôn, có mấy loại tiếng nói của hóa thân Thế tôn chủ trì, tiếng nói mà nhờ đó những người được hóa độ chưa thành thục thì thành thục, đã thành thục thì cũng vin vào đó mà mau được giải thoát? Đức Thế tôn dạy đại bồ tát Mạn thù: Thiện nam tử, tiếng nói Như lai khái lược có ba loại: một là khế kinh, hai là điều phục, ba là bản mẫu. Bạch đức Thế tôn, khế kinh là gì? điều phục là gì? bản mẫu là gì? Thiện nam tử, chỗ nào Như lai căn cứ những sự bao quát mà thuyết pháp thì đó là khế kinh. Những sự ấy có bốn, có chín và có hai mươi chín. Bốn sự là những gì, một là lắng nghe, hai là hướng đến, ba là tu học, bốn là chứng ngộ (178) . Chín sự là gì, một là thiết lập chúng sinh, hai là thiết lập sự thọ dụng của chúng sinh, ba là thiết lập sự sinh khởi của chúng sinh, bốn là thiết lập sự tồn tại của chúng sinh, năm là thiết lập sự nhiễm tịnh của chúng sinh, sáu là thiết lập sự sai biệt của chúng sinh, bảy là người nói, tám là pháp được nói, chín là chúng hội nghe nói (179) . Hai mươi chín sự là gì, loại tạp nhiễm có 1 là các hành, 2 là các hành lưu chuyển, 3 là nơi đó chấp ngã nên vị lai lưu chuyển, 4 là nơi đó chấp pháp nên vị lai lưu chuyển; loại thanh tịnh có 5 là chánh niệm pháp được nghe, 6 là tinh tiến về pháp ấy, 7 là tâm an định, 8 là sống trong pháp lạc; 9 là phương pháp giải thoát khổ não; 10 là biến tri khổ não -- sự này có ba: biến tri chỗ của những thứ điên đảo, biến tri chỗ của những thứ tà hành, biến tri chỗ của những thứ nội ly thượng mạn -- 11 là diệt nhân, 12 là tác chứng, 13 là tu tập; 14 là cứng chắc, 15 là hành tướng của sự cứng chắc, 16 là sở duyên của sự cứng chắc, 17 là sự khéo quan sát cái đã đoạn và cái chưa đoạn của sự cứng chắc; 18 là sự tán loạn của sự cứng chắc, 19 là sự không tán loạn của sự cứng chắc, 20 là chỗ dựa của sự không tán loạn, 21 là tu tập một cách cần cù nỗ lực; 22 là thắng ích của sự tu tập, 23 là sự bền chắc của sự tu tập, 24 là thu hoạch tuệ giác của thánh giả, 25 là thu hoạch sự hỗ trợ của tuệ giác ấy, 26 là thông suốt chân như, 27 là chứng đắc niết bàn; 28 là sự siêu việt trên đỉnh chánh kiến ngoại đạo của sự chánh kiến về pháp Như lai thiện thuyết ẫ dầu sự chánh kiến ấy đang còn hữu lậu, 29 là sự thoái lui của sự chánh kiến ấy -- nhưng không tu tập pháp thiện thuyết nên nói là thoái lui, chứ không phải sự chánh kiến ấy có gì sai lầm mà gọi là thoái lui (180) .

Lược Giải.-

Trên đây nói về kinh tạng, dưới đây nói về luật tạng.

Chính Văn.-

Thiện nam tử, chỗ nào Như lai do các vị Thanh văn và các vị Bồ tát mà nói về pháp biệt giải thoát và pháp tương ứng với biệt giải thoát thì đó là điều phục. Bạch đức Thế tôn, biệt giải thoát của Bồ tát bao gồm vào mấy tiết mục? Thiện nam tử, nên biết có bảy tiết mục, một là nói về qui tắc thọ giới, hai là nói về các giới pháp nặng (181) , ba là nói về sự phạm giới, bốn là nói về tánh tình còn phạm giới, năm là nói về tánh tình không phạm giới (182) , sáu là nói về cách sám hối sự phạm giới, bảy là nói về sự xả giới.

Nói Về Luận

Chính Văn.-

Thiện nam tử, chỗ nào Như lai đem mười một tiết mục mà thuyết pháp thì đó là bản mẫu (183) . Mười một tiết mục ấy là những gì, tiết mục 1 là thế tục đế, tiết mục 2 là thắng nghĩa đế, tiết mục 3 là sở duyên của các pháp bồ đề phần, tiết mục 4 là hành tướng, tiết mục 5 là tự tánh, tiết mục 6 là quả của tự tánh, tiết mục 7 là sự tiếp nhận khai thị của tự tánh, tiết mục 8 là chướng ngại của tự tánh, tiết mục 9 là tùy thuận của tự tánh, tiết mục 10 là lỗi lầm của tự tánh, tiết mục 11 là thắng ích của tự tánh. Tiết mục 1, thế tục đế có 3 mục: mục 1 nói về ngã chấp, mục 2 nói về biến kế chấp, mục 3 nói về tác dụng của các pháp (184) . Tiết mục 2, thắng nghĩa đế là nói về 7 chân như. Tiết mục 3, sở duyên của các pháp bồ đề phần là nói về tất cả chủng loại sở tri.

Lược Giải.-

Đ2 có mấy đoạn nhỏ. Trên đây là đoạn nhỏ kê tên 11 tiết mục của luận tạng và lược giải các tiết mục 1, 2 và 3.

Chính Văn.-

Tiết mục 4, hành tướng là nói về 8 hành quán: mục 1 là đế thật, mục 2 là an lập, mục 3 là quá thất, mục 4 là công đức, mục 5 là lý thú, mục 6 là lưu chuyển, mục 7 là đạo lý, mục 8 là tổng biệt. Mục 1, đế thật là nói về chân như của các pháp. Mục 2, an lập là lập ra ngã chấp, là lập ra biến kế chấp, là lập ra quyết định, phân tách, hỏi lại và lặng bỏ, là lập ra ẩn mậtminh bạch hay ký biệtsai biệt (185) . Mục 3, quá thất là nói pháp tạp nhiễm có nhiều mặt tội lỗi. Mục 4, công đức là nói pháp thanh tịnh có nhiều mặt thắng ích. Mục 5, lý thú có 6 thứ: lý thú chân lý, lý thú chứng đắc, lý thú giáo hóa, lý thú siêu việt nhị biên, lý thú bất khả tư nghị, lý thú mật ý. Mục 6, lưu chuyển là 3 thì gian, 3 hữu vi tướng và 4 duyên tố. Mục 7, đạo lý là 4 đạo lý: thứ 1 là đạo lý quán đãi, thứ 2 là đạo lý tác dụng, thứ 3 là đạo lý chứng thành, thứ 4 là đạo lý pháp nhĩ (186) . Thứ 1, đạo lý quán đãi là do nhân tố và duyên tố mà phát sinh các hành và phát sinh ngôn từ liên quan các hành. Thứ 2, đạo lý tác dụng là do nhân tố và duyên tố mà các pháp sinh, các pháp thành, các pháp sinh thành rồi tác dụng. Thứ 3, đạo lý chứng thành là do nhân tố và duyên tố mà làm cho ý nghĩa nói ra được xác lập và làm cho người nghe hiểu biết chính xác (187) . Thứ 4, đạo lý pháp nhĩNhư lai xuất thế hay không xuất thế, pháp tánh các pháp vẫn an lập, pháp giới các pháp vẫn an trú (188) . Mục 8, tổng biệt là trước nói tổng quát bằng một câu về pháp, sau đó nói những câu phân tách khác nhau làm cho rõ ràng trọn vẹn.

Lược Giải.-

Đây là đoạn nhỏ nói về hành tướng, tiết mục 4.

Chính Văn.-

Thêm nữa, đạo lý chứng thành có 2 loại, là loại trong sáng và loại vẩn đục. Do 5 sắc thái mà trong sáng và do 7 sắc thái mà vẩn đục. (Thứ nhất), do 5 sắc thái mà trong sáng là hiện thấy, suy luận, luận cứ, toàn hảo và chánh giáo. Hiện thấy là các hành vô thường, các hành khổ não, các pháp vô ngã, đại loại như vậy, đó là những điều mà hiện lượng thấy được. Suy luậndựa vào sự hiện thấy, tức xét thấy các hành là tính sát na, là tính có đời sau, là tính nghiệp lành nghiệp dữ không mất; tính sát na là do sự vô thường thô thiển mà biết, tính có đời sau là do chúng sinh có nhiều loại vì có nhiều loại nghiệp mà biết, tính nghiệp lành nghiệp dữ không mất là do chúng sinh có vui có khổ mà biết, đại loại như vậy, đó là những điều không hiện thấy mà có thể suy luận. Luận cứ là dẫn chứng từ những thí dụ cùng tính chất, tức đối với các hành nơi bản thân hay nơi ngoại giới đều có thể dẫn sự sống chết mà ai cũng biết để ví dụ, dẫn mọi sự khổ não của sự sống chết mà ai cũng biết để ví dụ, dẫn sự bất tự do mà ai cũng biết để ví dụ, dẫn sự thịnh suy mà ai cũng biết để ví dụ, đại loại như vậy. Toàn hảo là do hiện thấy, do suy luận và do luận cứ mà làm cho chủ thuyết lập ra được quyết định. Chánh giáo là những giáo huấn tốt đẹp trong sáng, tức những tuyên thuyết của bậc toàn giác, như tuyên thuyết niết bànvắng lặng trọn vẹn, đại loại như vậy. Do 5 sắc thái như vậy mà gọi là khéo quan sát về đạo lý trong sáng, và do sự trong sáng ấy mà đạo lý như vậy đáng được học tập. Bạch đức Thế tôn, bậc toàn giác thì có mấy sắc thái? Thiện nam tử, đại khái có 5 sắc thái: một là xuất hiện thế giới thì cái tiếng toàn giác ai cũng nghe cả; hai là toàn hảo 32 tướng quí của bậc đại trượng phu; ba là đầy đủ 10 trí lực loại được mọi nghi hoặc cho chúng sinh; bốn là đầy đủ 4 vô úy tuyên thuyết chánh pháp, không bị sự biện luận của ai khuất phục mà lại khuất phục được những sự tà luận; năm là trong chánh pháp được tuyên thuyết thì 8 thánh đạo và 4 thánh quả toàn là những cái có thể thực hiện ngay trong hiện tại. Sự xuất hiện thế giới (với cái tiếng toàn giác và đủ các tướng quí), sự giải quyết nghi hoặc, sự không bị khuất phục mà khuất phục được người khác, sự hiện tại có thể thực hiện thánh đạothánh quả, 5 sự như vậy là sắc thái của bậc toàn giác mà ông nên biết. Và, như thế, đạo lý chứng thành do hiện lượng, do tỷ lượng (cùng những luận cứ và sự toàn hảo của tỷ lượng ấy), và do chánh giáo lượng, do 5 sắc thái như vậy mà gọi là trong sáng. (Thứ hai), do 7 sắc thái mà vẩn đục là 1, một phần cùng tính chất, 2, một phần khác tính chất, 3, toàn phần cùng tính chất, 4, toàn phần khác tính chất, 5, ví dụ khác tính chất, 6, không phải toàn hảo, 7, không phải chánh giáo. Nếu đưa ra lý doý thức nhận biết thì đó là toàn phần cùng tính chất. Nếu đưa ra lý do vì sắc thái, vì đặc tính, vì tác dụng, vì nhân quả, mỗi lý do riêng biệt của mỗi pháp, quyết định khác nhau, thì đó là toàn phần khác tính chất. Nếu đưa ra lý do mà một phần cùng tính chất và ví dụ lại toàn phần khác tính chất thì vì vậy mà chủ thuyết lập ra không được quyết định, nên đó là không phải toàn hảo. Nếu đưa ra lý do mà một phần khác tính chất và ví dụ lại toàn phần cùng tính chất thì vì vậy mà chủ thuyết lập ra không được quyết định, nên đó là không phải là toàn hảo. Không phải toàn hảo, không phải khéo quan sát đạo lý trong sáng, thì do sự vẩn đục ấy mà không đáng học tập. Ví dụ khác tính chất, và không phải chánh giáo, thì ông nên biết bản chất toàn là vẩn đục (189) .

Lược Giải.-

Đoạn nhỏ này, như đã nói ở ghi chú 187, là nói thêm về đạo lý 3, đạo lý chứng thành.

Chính Văn.-

Tiết mục 5, tự tánh là sự tu hành và sự vin theo mà Như lai nói cho để thủ đắc các pháp bồ đề phần là niệm trú và các mục cùng loại. Tiết mục 6, quả của tự tánh là những sự diệt trừ phiền não và những thành quả công đức thuộc cả phạm vi thế gianphạm vi xuất thế. Tiết mục 7, sự tiếp nhận khai thị của tự tánh là đối với cái quả nói trên, đem cái trí giải thoát mà lãnh nhận và khai thị phong phú cho người. Tiết mục 8, chướng ngại của tự tánh là chính các pháp ô nhiễm gây chướng ngại cho sự tu hành các pháp bồ đề phần. Tiết mục 9, tùy thuận của tự tánh là những gì làm cho sự tu hành ấy nhiều hơn lên. Tiết mục 10, tội lỗi của tự tánh là những tội lỗi của các pháp chướng ngại nói trên. Tiết mục 11, thắng ích của tự tánh là những công đức của các pháp tùy thuận nói trên.

Lược Giải.-

Đây là đoạn nhỏ chót hết của Đ2, lược giải các tiết mục còn lại là 5 đến 11.

Nói Về Tổng Trì

Chính Văn.-

Đại bồ tát Mạn thù lại thưa Phật: Bạch đức Thế tôn, xin đức Thế tôn nói tóm tắt cho các vị Bồ tát biết sự tổng trì kinh luật luận, một sự tổng trì không cọng hữu với ngoại đạo; do sự tổng trì không cọng hữu này mà làm cho các vị Bồ tát ngộ nhập được mật ý sâu xa của các pháp đức Thế tôn tuyên thuyết. Đức Thế tôn dạy đại bồ tát Mạn thù: Thiện nam tử, ông hãy nghe kyծ Như lai nay sẽ nói tóm tắt cho các ông về sự tổng trì không cọng hữu, để làm cho các vị Bồ tát khéo ngộ nhập những ngôn từ mật ýNhư lai tuyên thuyết. Thiện nam tử, dầu pháp tạp nhiễm, dầu pháp thanh tịnh, Như lai nói tất cả toàn không tác dụng, toàn không bản ngã, bởi vì hết thảy chủng loại đều là phi thi vi. Không phải pháp tạp nhiễm trước bẩn sau sạch, không phải pháp thanh tịnh sau sạch trước bẩn. Nơi cái thân nặng nề, những kẻ phàm phu chấp pháp chấp ngã với bao đặc tínhchi tiết. Chính vọng kiến tùy miên này làm duyên tố nên chấp ta và của ta. Chính vọng kiến tùy miên này bảo ta thấy, ta nghe, ta ngửi, ta nếm, ta chạm, ta biết, ta ăn, ta làm, ta bẩn, ta sạch, đại loại như vậy chuyển thành tà hành. Nếu ai biết đúng như thế này thì vĩnh viễn loại bỏ cái thân nặng nề, đạt được sự không còn phiền não, cùng cực thanh tịnh, siêu việt hý luận, không làm chỗ nương tựa, không có sự thi vi. Đó là tóm tắt về tổng trì không cọng hữu.

Lúc ấy đức Thế tôn muốn lặp lại ý nghĩa đã nói nên nói những lời chỉnh cú sau đây.

 Tất cả các pháp
 nhiễm cũng như tịnh,
 toàn vô tác dụng
 toàn phi bản ngã:
 phi thi vi này
 mà Như lai nói,
 thì bẩn với sạch
 không phải trước sau.
 Vọng kiến tùy miên
 làm duyên tố chính,
 thấy thân nặng nề
 là ta của ta,
 và vọng nói rằng
 ta thấy ta biết,
 ta ăn ta làm
 ta bẩn ta sạch.
 Đúng như sự thật
 mà biết như vậy,
 vĩnh viễn diệt được
 cái thân nặng nề,
 được phi nhiễm tịnh
 và siêu hý luận,
 không là chỗ dựa
 không là thi vi.

Lược Giải.-

Tổng trì không cọng hữu được dạy như trên đây thì đúng là Bát nhã và Không của Bát nhã.

Mấy Điều Quyết Trạch

Chính Văn.-

Lúc ấy đại bồ tát Mạn thù thưa Phật: Bạch đức Thế tôn, chúng con nên nhân thức như thế nào về trạng thái sinh khởi của tâm đức Thế tôn? Đức Thế tôn dạy đại bồ tát Mạn thù: Thiện nam tử, Như lai thì không phải được biểu thị bằng sự sinh khởi của tâm ý thức. Thế nhưng Như lai có sự sinh khởi của cái tâm không cần da hành và sự sinh khởi ấy nên biết tựa như sự biến hóa. Bạch đức Thế tôn, pháp thân Thế tôn tách rời mọi sự da hành, da hành không có thì làm sao có sự sinh khởi của tâm? Thiện nam tử, do sức mạnh da hành mà trước đó đã tu tập về tuệ độ nên tâm sinh khởi. Tựa như kẻ đang ngủ một cách không có tâm thức gì trong giấc ngủ thì không có da hành gì để thức cả, nhưng do sức mạnh da hành trước đó nên vẫn thức dậy. Lại như vị đang nhập định Diệt tận thì không có da hành gì để xuất định, xuất định là do da hành trước đó. Như ngủ và định Diệt tận mà tâm sinh khởi trở lại, Như lai cũng do sức mạnh da hành mà trước đó đã tu tập về tuệ độ, nên vẫn có sự sinh khởi của tâm. Bạch đức Thế tôn, hóa thân của đức Thế tôntâm thức hay không tâm thức? Thiện nam tử, không phải có tâm thức, cũng không phải không tâm thức, vì không có cái tâm do nơi mình nhưng có cái tâm bởi nơi người (190)

Đại bồ tát Mạn thù lại thưa Phật: Bạch đức Thế tôn, trú xứ với đối tượng, hai thứ ấy của đức Thế tôn có gì khác nhau? Đức Thế tôn dạy đại bồ tát Mạn thù: Thiện nam tử, trú xứ của Như lai là hết thảy chủng loại về cõi Phật tinh khiết mà chư Như lai cùng có, và được trang hoàng bởi vô lượng công đức bất khả tư nghị. Đối tượng của Như lai là tất cả chủng loại về năm giới: giới chúng sinh, giới thế giới, giới các pháp, giới người được thuần hóa và giới phương pháp thuần hóa. Như thế đó gọi là hai thứ khác nhau.

Đại bồ tát Mạn thù lại thưa Phật: Bạch đức Thế tôn, đức Thế tôn thành đẳng chánh giác, chuyển chánh pháp luân, nhập đại niết bàn, ba sự như vậy con nên hiểu là sắc thái gì? Đức Thế tôn dạy đại bồ tát Mạn thù: Thiện nam tử, nên biết ba sự như vậy toàn là sắc thái bất nhị: phi thành đẳng chánh giác, phi không thành đẳng chánh giác; phi chuyển chánh pháp luận, phi không chuyển chánh pháp luân; phi nhập đại niết bàn, phi không nhập đại niết bàn. Tại sao, bởi vì pháp thân Như lai thì cứu cánh thanh tịnhhóa thân Như lai thì thường xuyên thị hiện.

Đại bồ tát Mạn thù lại thưa Phật: Bạch đức Thế tôn, các loại chúng sinh chỉ thấy nghe và phụng sự hóa thân Thế tôn mà sinh công đức, vậy đức Thế tôn là duyên tố gì của họ? Đức Thế tôn dạy đại bồ tát Mạn thù: Thiện nam tử, Như lainhân duyên cho tăng thượng duyên của họ, bởi vì hóa thân Như lai là do cái lực của pháp thân Như lai gìn giữ.

Đại bồ tát Mạn thù lại thưa Phật : Bạch đức Thế tôn, cùng là không có da hành mà tại sao pháp thân Thế tônchúng sinh mà phóng ánh sáng lớn của trí giác vĩ đại, lại xuất ra vô lượng ảnh tượng hóa thân, còn giải thoát thân của Thanh vănĐộc giác lại không có những sự ấy? Đức Thế tôn dạy đại bồ tát Mạn thù: Thiện nam tử, tựa như cùng là không có da hành, nhưng tinh thể của nhật nguyệt thì phóng ánh sáng lớn chứ không phải những tinh thể khác, ấy là vì chúng sinh đại oai đức giữ gìn, vì nghiệp lực tăng thượng của chúng sinh; thêm nữa, như từ viên ngọc ma ni được chạm khắc bởi tay thợ lành nghề mới xuất hiện đường nét, chứ không phải từ những viên ngọc không được chạm khắc. Tương tự như vậy, do cái tuệ độ vin hết vô lượng pháp giới cùng cực khéo léo tu tập mài dủa mới thành pháp thân Như lai, từ pháp thân này mới phóng được ánh sáng trí giác vĩ đại và xuất ra vô lượng ảnh tượng hóa thân, chứ không phải chỉ từ giải thoát thân mà có những sự ấy.

Đại bồ tát Mạn thù lại thưa Phật: Bạch đức Thế tôn, như đức Thế tôn nói, do oai đức giữ gìn của đức Thế tôn và của chư Bồ tát mà làm cho chúng sinh ở trong cõi Dục thì sinh vào nhà đại phú quí của đẳng cấp Sát đế lợi hay đẳng cấp Bà la môn, cái thân con người cùng với tài sản bảo vật không thứ nào không toàn hảo; sinh trong chư thiên cõi Dục, sinh trong cõi Sắc và cõi Không, thì cũng toàn hảo thân thể và tài bảo ở những cõi ấy. Bạch đức Thế tôn, lời này có mật ý gì? Đức Thế tôn dạy đại bồ tát Mạn thù: Thiện nam tử, Như lai với Bồ tát đem oai đứcgiữ gìn chánh pháp (191) ; bất cứ chỗ nào có thể làm cho chúng sinh được thân thể và tài bảo toàn hảo, thì Như lai tùy nghi mà nói chánh pháp ấy cho họ. Rồi ai có năng lực chính xác tu hành chánh pháp ấy, thì sinh ra chỗ nào, thân thể và tài bảo nhận được cũng đều toàn hảo; ai chống đối khinh phá chánh pháp ấy, lại quấy phá tức giận Như lai, thì mạng chung rồi sinh ra ở đâu, thân thể và tài bảo nhận được cũng toàn thấp kém. Do vậy, oai đức giừ gìn của Như laiBồ tát không những làm cho chúng sinh thân thể và tài bảo đều toàn hảo, mà oai đức giữ gìn của Như laiBồ tát cũng làm cho chúng sinh thân thể và tài bảo đều thấp kém.

Đại bồ tát Mạn thù lại thưa Phật: Bạch đức Thế tôn, trong những thế giới dơ bẩn thì việc gì dễ có và việc gì khó có? trong những thế giới tinh khiết thì việc gì dễ có và việc gì khó có? Đức Thế tôn dạy đại bồ tát Mạn thù: Thiện nam tử, trong những thế giới dơ bẩn thì có tám sự dễ có và hai sự khó có. Tám sự dễ có là dễ có ngoại đạo, dễ có kẻ khổ, dễ có đẳng cấp gia tộc lắm sự thịnh suy, dễ có sự làm ác, dễ có sự phạm giới, dễ có các đường dữ, dễ có giáo lý thấp, dễ có Bồ tát ý lạc và da hành đều thấp kém; hai sự khó có là khó có sự đến đó của các vị Bồ tátý lạc và da hành đều tăng thượng, khó có sự xuất hiện của Như lai. Trong những thế giới tinh khiết thì trái ngược với trên đây, có tám sự rất khó có và có 2 sự dễ có.

Lược Giải.-

Đoạn D3 này có 7 đoạn nhỏ tất cả, quyết trạch khá nhiều vấn đề về Phật.

Kết Thúc Pháp Thoại

Chính Văn.-

Lúc ấy đại bồ tát Mạn thù thưa Phật: Bạch đức Thế tôn, trong toàn bộ pháp thoại Giải thâm mật, pháp thoại này nên mệnh danh là gì? Chúng con phải kính cẩn ghi nhớ như thế nào? Đức Thế tôn dạy đại bồ tát Mạn thù: Thiện nam tử, pháp thoại này tên là Nghĩa lý hoàn hảo về Phật sự. Ông hãy kính cẩn ghi nhớ theo cái tên như vậy.

Khi đức Thế tôn nói pháp thoại Nghĩa lý hoàn hảo về Phật sự thì trong đại hội có bảy mươi lăm ngàn đại bồ tát đều được chứng ngộ pháp thân viên mãn.
 
 

Lời Nói Cuối

Sau khi dịch giải xong, tôi tìm được 1 bản chú giải Giải thâm mật mà có phần chắc là bản mà tôi đã được học. Bản ấy nằm trong Vạn 76/304 - 324, xin ghi để ai muốn thì tìm tham khảo.

23.10.2532.
Trí Quang
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 43174)
Đây là một bản kinh Phật đặc sắc, nêu bật lên ý nghĩa nhân quả bằng những truyện tích nhân duyên rất sống động, được thuật lại với nhiều chi tiết thú vị.
(Xem: 43965)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 43042)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366, Đoàn Trung Còn và Nguyễn Minh Tiến dịch
(Xem: 49029)
Có một lúc, đức Phật ở trong núi Kỳ-xà-quật gần thành Vương Xá, cùng với các vị đại tỳ-kheo mười hai ngàn người, đại Bồ Tát là tám mươi ngàn người.
(Xem: 39873)
Bấy giờ, đức Thế Tôn ở giữa đại chúng, vì đại chúngthuyết giảng giáo pháp nhiệm mầu, trừ sạch bốn điên đảo, khiến cho được rõ biết các pháp lành...
(Xem: 53805)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, lúc mới Chuyển pháp luân độ ông A-nhã Kiều-trần-như, đến khi thuyết pháp lần cuối cùng độ ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 36839)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng. Nếu thấy các tướng thật chẳng phải tướng tức là thấy Như Lai.
(Xem: 40834)
Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: "Về phương đông, cách đây vô số cõi Phật nhiều như số cát sông Hằng, có một thế giới tên là Tịnh Lưu Ly.
(Xem: 49744)
Lúc ấy, Bồ Tát Vô Tận Ý từ chỗ ngồi đứng dậy, vén tay áo bên vai mặt, quỳ xuống chắp tay cung kính bạch Phật rằng...
(Xem: 47336)
Thế Tôn thành đạo dĩ, tác thị tư duy: “Ly dục tịch tĩnh, thị tối vi thắng.” Trụ đại thiền định, hàng chư ma đạo. Ư Lộc dã uyển trung...
(Xem: 27758)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 25869)
Quyển Kinh Lời Vàng này nguyên danh là "Phật Giáo Thánh Kinh" do nữ Phật tử Dương Tú Hạc biên trước bằng Hán Văn (người Trung Hoa).
(Xem: 29901)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27182)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 24772)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 21330)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23233)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 23893)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22822)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 29591)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20648)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 34183)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 24691)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30049)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20232)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20411)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15147)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 23912)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
(Xem: 34084)
Tiểu Bộ Kinh - Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
(Xem: 24011)
Quy mạng Lô Xá Na, Mười phương Kim Cương Phật. Ðảnh lễ đức Di Lạc, Sẽ hạ sanh thành Phật. Nay tụng ba tựu giới, Bồ Tát đều cùng nghe.
(Xem: 29206)
Tôi nghe như vầy: Một thời Thế-tôn, châu du giáo hóa các nước đến thành Quảng-nghiêm, ở nghỉ dưới cây Nhạc-âm, cùng với tám ngàn vị đại tỳ-kheo...
(Xem: 60171)
Bồ TátVô Tận Ý Khi bấy giờ chăm chỉ đứng lên Bèn trịch vai hữu một bên Chắp tay cung kính hướng lên Phật đài
(Xem: 27630)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 68757)
Chúng sanh đây có bấy nhiêu Lắng tai nghe lấy những điều dạy răn Các ngươi trước lòng trần tục lắm Nên kiếp nầy chìm đắm sông mê
(Xem: 24544)
Một thuở nọ Thế Tôn an trụ Xá Vệ thành Kỳ Thụ viên trung Mục Liên mới đặng lục thông Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm luân.
(Xem: 26379)
Lăng-già (Lanka) là tên núi, núi này do sản xuất châu Lăng-già nên lấy tên châu mà gọi tên núi. Núi nằm tại biển Nam là chỗ ở của Dạ-xoa.
(Xem: 20829)
Lư hương xạ nhiệt, Pháp-giới mông huân. Chư Phật hải hội tất diêu văn, Tùy xứ kiết tường vân
(Xem: 20075)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phảng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 27563)
Làm người Phật tử ở đời Đêm ngày tụng niệm những lời dạy khuyên Tám điều giác ngộ kinh truyền Ghi lòng tạc dạ tinh chuyên tu hành
(Xem: 46457)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 25598)
Phụng dịch theo bản đời Đường của Ngài Thiệt Xoa Nan Đà. Tham khảo các bản dịch đời Ngụy, Tống và bản dịch Anh Ngữ của Suzuki. - Dịch Giả: Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 29278)
VIMALAKĪRTINIRDEŚA - SŪTRA - Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết - Đường Huyền Trang dịch - bản dịch Việt: Tuệ Sỹ
(Xem: 189043)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi tam-bảo
(Xem: 27441)
Thắng Man Phu nhân điển hình cho phụ nữ thực hành Bồ tát đạo bằng cung cách trang nhã, từ ái, khiêm cung. Môi trường thực hành bao gồm từ giới hạn thân thuộc...
(Xem: 31157)
Kinh Pháp Cú (Kinh Lời Vàng), The Path of Truth - Việt dịch: Hòa Thượng Thích Minh Châu - Họa sĩ: Mr. P. Wickramanayaka (vẽ theo bản tiếng Anh mà HT Thích Minh Châu dịch) - Vi tính: Tâm Tịnh
(Xem: 33180)
Tích truyện Pháp Cú - Thiền viện Viên Chiếu - Nguyên tác: "Buddhist Legends", Eugène Watson Burlingame
(Xem: 24040)
Sau 45 năm thuyết pháp, những lời giảng daỵ của Đức Phật không những không bị quên lãng, thất lạc mà còn được lưu giữ, truyền bá mãi đến ngày nay...
(Xem: 25635)
Ta Bà là chốn tạm ở thôi Cửa không mau phải hồi đầu lại Hai sáu nguyện vương tiêu tai chướng Ba ngàn hoá Phật chứng lòng thành
(Xem: 26716)
Cuộc đối thoại đầy đạo vị hứng thú dĩ nhiên được truyền tụng khắp nơi trong giới Phật giáo cũng như ngoài nhân gian. Về sau, vào thế kỷ đầu sau Tây lịch, sợ để khẩu truyền lâu ngày
(Xem: 36681)
Ở phương Ðông cách đây hơn mười căn dà sa cõi Phậtmột thế giới tên là Tịnh Lưu Ly. Ðức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai
(Xem: 27358)
Lúc Đức Phật Thích-ca chứng đắc, Chuyển bánh xe chánh pháp độ sanh, Kiều-trần-như được duyên lành, Năm anh em họ viên thành lý chân,
(Xem: 30386)
Phật Thùy Ban Niết Bàn Lược Thuyết Giáo Giới Kinh (Kinh Di Giáo) - Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0389 - Cưu Ma La Thập dịch Hán; HT. Thích Trí Quang dịch Việt
(Xem: 37329)
Một thời Ðức Phật ở nước Xá Vệ, trong vườn Cấp Cô Ðộc, cây của thái tử Kỳ Ðà, cùng với các đại Tỳ Kheo Tăng... Thích Minh Định dịch
(Xem: 23910)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Kỳ Thọ Cấp Cô Độc gần thành Xá Vệ, với đại chúng khất sĩ gồm một ngàn hai trăm năm mươi vị. Hôm ấy vào giờ khất thực, Bụt mặc áo và ôm bát đi vào thành Xá Vệ.
(Xem: 36993)
Khuyến phát Bồ Đề Tâm văn; Âm Hán Việt: Cổ Hàng Phạm Thiên Tự Sa môn Thật Hiền soạn; Dịch: Sa môn Thật Hiền chùa Phạm Thiên Cổ Hàng soạn
(Xem: 27627)
Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm Kinh - Năm trăm Danh Hiệu Phật và Bồ Tát Quán Thế Âm
(Xem: 28347)
Công Phu Khuya
(Xem: 24168)
Nói một cách vắn tắt, sự xuất hiện của Duy-ma-cật là xu hướng khẳng định vai trò tích cực của chúng đệ tử tại gia trong giáo pháp của Phật, về các mặt hành đạo cũng như hóa đạo.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant