Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phẩm 9: Trùng Tuyên Về Không

01 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 8023)
Phẩm 9: Trùng Tuyên Về Không

KINH KIM QUANG MINH
(KINH ÁNH SÁNG HOÀNG KIM)
Hoà Thượng Thích Trí Quang Dịch Giải 
Bản Hoa Dịch của Ngài Nghĩa Tịnh

 

Phẩm 9: Trùng Tuyên Về Không

Đức Thế tôn nói về minh chú Kim thắng rồi, để lợi ích cho bồ tát đại sĩ, cho đại hội nhân loại chư thiên, làm cho ai cũng nhận thức đạo lý bậc nhất, thậm thâm chân thật, nên Ngài nói lại về Không, bằng những chỉnh cú sau đây.

(1) Như lai ở trong 
các kinh sâu xa 
đã nói phong phú 
về diệu lý Không. 
Nay trong bản kinh 
vua các kinh này 
lược nói về Không 
siêu việt tư nghị. 
(2) Với diệu lý Không 
quảng đại sâu xa
chúng sinh vô trí 
không thể ý thức
thế nên Như lai 
trùng tuyên nơi đây 
về diệu lý ấy 
cho họ tỉnh ngộ
(3) Những bậc đại bi 
thương xót chúng sinh
đem thiện phương tiện 
làm thắng nhân duyên (51) ; 
thế nên Như lai 
trong đại hội này 
trùng tuyên cho họ 
thể nhận Không lý. 
(4) Không thì thân này 
tựa như xóm vắng, 
lục tặc ở đó 
mà không biết nhau; 
nhóm giặc sáu cảnh 
dựa riêng sáu căn 
mà không biết nhau 
cũng y như vậy. 
(5) Nhãn căn thường nhìn 
vào nơi sắc cảnh
nhĩ căn liên tục 
nghe vào thanh cảnh
tyՠcăn thường ngửi 
vào nơi hương cảnh
thiệt căn vị giác 
vào nơi myՠvị, 
(6) thân căn tiếp nhận 
xúc giác mềm dịu, 
ý căn biết pháp 
có chán bao giờ: 
như vậy sáu căn 
khởi theo yếu tố
cùng nơi cảnh riêng 
mà sinh phân biệt
(7) Thức như ảo hóa 
đâu phải chắc thật, 
dựa vào cảnh 
mà vọng tham cầu. 
Như người bôn ba 
trong xóm trống vắng, 
sáu thức cũng vậy 
dựa vào sáu căn. 
(8) Thức dông khắp cả 
chuyển theo vị trí
dựa căn vin cảnh 
mà biết mọi sự: 
đắm sắc thanh hương 
say vị xúc pháp, 
và riêng với pháp 
tầm tư không ngừng. 
(9) Thức theo duyên tố 
đi khắp sáu căn, 
tựa như con chim 
bay trong không gian
Nhưng phải nhờ căn 
làm chỗ y cứ 
thức mới nhận thức 
đối với các cảnh. 
(10) Không là tri giả
không là tác giả (52) 
thân không bền chắc, 
có do yếu tố
Tất cả là sinh 
từ vọng phân biệt
chỉ như bộ máy: 
chuyển động vì Nghiệp. 
(11) Đất nước lửa gió 
chung thành thân thể, 
và tùy yếu tố 
kết quả khác nhau. 
Nhưng ở một chỗ 
mà chúng hại nhau, 
như bốn rắn độc 
ở trong một hộp. 
(12) Bốn rắn tứ đại 
bản tính khác nhau, 
cùng trong một thân 
vẫn có thăng trầm
hoặc lên hoặc xuống 
khắp cả châu thân, 
thế nên chung cục 
qui về diệt vong
(13) Bốn con rắn độc 
tứ đại như vậy, 
đất nước hai loại 
đa số trầm xuống, 
gió lửa hai loại 
tính lại nhẹ bổng
do mâu thuẫn ấy 
bịnh hoạn phát sinh. 
(14) Tâm thức dựa vào 
cái thân như vậy, 
tạo nghiệp lành dữ 
đủ mọi dạng thức. 
Rồi trong trời người 
hay ba đường dữ 
tùy theo nghiệp lực 
mà nhận thân hình
(15) Thân hình ấy bịnh, 
rồi thân hình chết; 
bịnh thì đại tiểu 
từ thân thoát ra, 
chết thì thối rã 
giòi bọ ghê tởm, 
vất ở rừng thây (53) 
như vất gỗ mục. 
(16) Đại hội hãy xét 
thân là như vậy, 
tại sao chấp là 
bản ngã, sinh thể? 
Phải xét các pháp 
toàn là vô thường
toàn do năng lực 
vô minh khởi động. 
(17) Bốn thứ đại chủng 
toàn bộ hư vọng
bản chất không thật 
thật thể không sinh, 
nên Như lai nói 
đại chủng toàn không, 
thì biết phù hư 
không phải thật có. 
(18) Và chính vô minh 
tự tánh vốn không, 
có ra chỉ vì 
yếu tố hóa hợp, 
làm cho lúc nào 
cũng mất tuệ giác
nên Như lai nói 
đó là vô minh
(19) Do hành với thức 
mà có danh sắc
lục nhập và xúc 
cũng sinh từ đó, 
do ái thủ hữu 
có sinh già chết, 
lo buồn khổ não 
theo mãi chúng sinh
(20) Khổ não ác nghiệp 
ràng buộc bức bách
sinh tử luân hồi 
vì vậy không nghỉ. 
Bản lai phi hữu
thể tánh là không; 
vì không như lý, 
phân biệt sinh ra. 
(21) Như lai đã diệt 
mọi thứ phiền não
thường do chánh trí 
hiện hành mà sống: 
biết nhà ngũ uẩn 
toàn là trống rỗng, 
tiến chứng bồ đề 
nơi thật chân thật
(22) Như lai mở cửa 
đại thành cam lộ
chỉ cho đồ chứa 
cam lộ vi diệu
Tự mình đã được 
chân cam lộ vị, 
lại đem cho người 
cam lộ vị ấy. 
(23) Như lai gióng lên 
trống pháp tối thắng
Như lai thổi lên 
loa pháp tối thắng,
Như lai đốt lên 
đèn pháp tối thắng
Như lai mưa xuống 
nước pháp tối thắng
(24) Chiến thắng phiền não 
cùng bao oán kết
Như lai dựng lên 
cờ pháp tối thượng
Từ biển sinh tử 
cứu vớt chúng sinh
Như lai đóng cửa 
ba nẻo đường dữ. 
(25) Phiền não lửa dữ 
thiêu đốt chúng sinh
không ai cứu cho 
không nơi nương tựa
Cam lộ mát ngọt 
làm cho sung mãn
thân tâm nóng bức 
đều loại trừ cả. 
(26) Do vậy Như lai 
trong vô số kiếp 
tôn kính hiến cúng 
chư vị Như lai
kiên trì giới pháp 
bước tới bồ đề
mong chứng pháp thân 
thể hiện an lạc
(27) Như lai đem cho 
tai mắt chân tay, 
vợ con tôi tớ 
cũng không tiếc lẫn, 
tài sản vàng ngọc 
cả đồ trang sức, 
tùy ai cầu gì 
Như lai cho cả. 
(28) Tu hành khắp cả 
sáu ba la mật
viên mãn mười địa 
thành chánh giác
thế nên được tôn 
bậc Nhất thế trí, 
không một ai khác 
lường nổi Như lai
(29) Giả sử đất đai 
đại thiên thế giới 
tất cả mọi nơi 
đều mọc cây cối, 
cây lùm cây rừng 
lúa mè tre lau 
cùng với bao nhiêu 
chủng loại cây khác. 
(30) Cây cối như vậy 
đều đốn chặt hết, 
và đem nghiền nhỏ 
thành vi trần cả ; 
tụ vi trần ấy 
thành khối thành đống, 
cho đến tụ lại 
đầy cả không gian
(31) Tất cả quốc độ 
khắp cả mười phương 
có được bao nhiêu 
đại thiên thế giới
đất đai trong đó 
cũng nghiền thành bụi, 
số lượng bụi ấy
hết cách tính toán. 
(31) Giả sử trí tuệ 
của cả chúng sinh 
gom lại thành ra 
trí tuệ một người, 
và người như vậy 
nhiều đến vô số
có thể biết được 
số bụi nói trên. 
(33) Nhưng chỉ một thoáng 
tuệ giác Như lai
mà những người trên 
chung nhau suy lường 
trong những đời kiếp 
nhiều đến vô số
cũng không tính toán 
biết được phần ít. 
Bấy giờ đại hội nghe đức Thế tôn trùng tuyên về cái Không sâu xa, thì có vô lượng chúng sinh thấu triệt bốn đại năm uẩn thể tánh toàn không, sáu căn sáu cảnh chỉ ràng buộc một cách giả dối. Ai cũng nguyện bỏ luân hồi, chính xác tu tập giải thoát, thâm tâm vui mừng, phụng trì đúng lời đức Thế tôn chỉ dạy.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12825)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12747)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11801)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11780)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12398)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12447)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19893)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 12027)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 12051)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16947)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12725)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 15128)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 16193)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12946)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12295)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11972)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11975)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13217)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16562)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13277)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12564)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11905)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19917)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11210)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11319)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10455)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11150)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 11016)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 10072)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11790)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
(Xem: 11687)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 12007)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11147)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11391)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12107)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12598)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10819)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 18041)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11758)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9992)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 11280)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 13214)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 16626)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 11912)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10955)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 11893)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 28862)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12415)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 53160)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35557)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 16117)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 12242)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12376)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 11429)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17245)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 15030)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 14656)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13916)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11774)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15105)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant