Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phẩm 9: Trùng Tuyên Về Không

01 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 8017)
Phẩm 9: Trùng Tuyên Về Không

KINH KIM QUANG MINH
(KINH ÁNH SÁNG HOÀNG KIM)
Hoà Thượng Thích Trí Quang Dịch Giải 
Bản Hoa Dịch của Ngài Nghĩa Tịnh

 

Phẩm 9: Trùng Tuyên Về Không

Đức Thế tôn nói về minh chú Kim thắng rồi, để lợi ích cho bồ tát đại sĩ, cho đại hội nhân loại chư thiên, làm cho ai cũng nhận thức đạo lý bậc nhất, thậm thâm chân thật, nên Ngài nói lại về Không, bằng những chỉnh cú sau đây.

(1) Như lai ở trong 
các kinh sâu xa 
đã nói phong phú 
về diệu lý Không. 
Nay trong bản kinh 
vua các kinh này 
lược nói về Không 
siêu việt tư nghị. 
(2) Với diệu lý Không 
quảng đại sâu xa
chúng sinh vô trí 
không thể ý thức
thế nên Như lai 
trùng tuyên nơi đây 
về diệu lý ấy 
cho họ tỉnh ngộ
(3) Những bậc đại bi 
thương xót chúng sinh
đem thiện phương tiện 
làm thắng nhân duyên (51) ; 
thế nên Như lai 
trong đại hội này 
trùng tuyên cho họ 
thể nhận Không lý. 
(4) Không thì thân này 
tựa như xóm vắng, 
lục tặc ở đó 
mà không biết nhau; 
nhóm giặc sáu cảnh 
dựa riêng sáu căn 
mà không biết nhau 
cũng y như vậy. 
(5) Nhãn căn thường nhìn 
vào nơi sắc cảnh
nhĩ căn liên tục 
nghe vào thanh cảnh
tyՠcăn thường ngửi 
vào nơi hương cảnh
thiệt căn vị giác 
vào nơi myՠvị, 
(6) thân căn tiếp nhận 
xúc giác mềm dịu, 
ý căn biết pháp 
có chán bao giờ: 
như vậy sáu căn 
khởi theo yếu tố
cùng nơi cảnh riêng 
mà sinh phân biệt
(7) Thức như ảo hóa 
đâu phải chắc thật, 
dựa vào cảnh 
mà vọng tham cầu. 
Như người bôn ba 
trong xóm trống vắng, 
sáu thức cũng vậy 
dựa vào sáu căn. 
(8) Thức dông khắp cả 
chuyển theo vị trí
dựa căn vin cảnh 
mà biết mọi sự: 
đắm sắc thanh hương 
say vị xúc pháp, 
và riêng với pháp 
tầm tư không ngừng. 
(9) Thức theo duyên tố 
đi khắp sáu căn, 
tựa như con chim 
bay trong không gian
Nhưng phải nhờ căn 
làm chỗ y cứ 
thức mới nhận thức 
đối với các cảnh. 
(10) Không là tri giả
không là tác giả (52) 
thân không bền chắc, 
có do yếu tố
Tất cả là sinh 
từ vọng phân biệt
chỉ như bộ máy: 
chuyển động vì Nghiệp. 
(11) Đất nước lửa gió 
chung thành thân thể, 
và tùy yếu tố 
kết quả khác nhau. 
Nhưng ở một chỗ 
mà chúng hại nhau, 
như bốn rắn độc 
ở trong một hộp. 
(12) Bốn rắn tứ đại 
bản tính khác nhau, 
cùng trong một thân 
vẫn có thăng trầm
hoặc lên hoặc xuống 
khắp cả châu thân, 
thế nên chung cục 
qui về diệt vong
(13) Bốn con rắn độc 
tứ đại như vậy, 
đất nước hai loại 
đa số trầm xuống, 
gió lửa hai loại 
tính lại nhẹ bổng
do mâu thuẫn ấy 
bịnh hoạn phát sinh. 
(14) Tâm thức dựa vào 
cái thân như vậy, 
tạo nghiệp lành dữ 
đủ mọi dạng thức. 
Rồi trong trời người 
hay ba đường dữ 
tùy theo nghiệp lực 
mà nhận thân hình
(15) Thân hình ấy bịnh, 
rồi thân hình chết; 
bịnh thì đại tiểu 
từ thân thoát ra, 
chết thì thối rã 
giòi bọ ghê tởm, 
vất ở rừng thây (53) 
như vất gỗ mục. 
(16) Đại hội hãy xét 
thân là như vậy, 
tại sao chấp là 
bản ngã, sinh thể? 
Phải xét các pháp 
toàn là vô thường
toàn do năng lực 
vô minh khởi động. 
(17) Bốn thứ đại chủng 
toàn bộ hư vọng
bản chất không thật 
thật thể không sinh, 
nên Như lai nói 
đại chủng toàn không, 
thì biết phù hư 
không phải thật có. 
(18) Và chính vô minh 
tự tánh vốn không, 
có ra chỉ vì 
yếu tố hóa hợp, 
làm cho lúc nào 
cũng mất tuệ giác
nên Như lai nói 
đó là vô minh
(19) Do hành với thức 
mà có danh sắc
lục nhập và xúc 
cũng sinh từ đó, 
do ái thủ hữu 
có sinh già chết, 
lo buồn khổ não 
theo mãi chúng sinh
(20) Khổ não ác nghiệp 
ràng buộc bức bách
sinh tử luân hồi 
vì vậy không nghỉ. 
Bản lai phi hữu
thể tánh là không; 
vì không như lý, 
phân biệt sinh ra. 
(21) Như lai đã diệt 
mọi thứ phiền não
thường do chánh trí 
hiện hành mà sống: 
biết nhà ngũ uẩn 
toàn là trống rỗng, 
tiến chứng bồ đề 
nơi thật chân thật
(22) Như lai mở cửa 
đại thành cam lộ
chỉ cho đồ chứa 
cam lộ vi diệu
Tự mình đã được 
chân cam lộ vị, 
lại đem cho người 
cam lộ vị ấy. 
(23) Như lai gióng lên 
trống pháp tối thắng
Như lai thổi lên 
loa pháp tối thắng,
Như lai đốt lên 
đèn pháp tối thắng
Như lai mưa xuống 
nước pháp tối thắng
(24) Chiến thắng phiền não 
cùng bao oán kết
Như lai dựng lên 
cờ pháp tối thượng
Từ biển sinh tử 
cứu vớt chúng sinh
Như lai đóng cửa 
ba nẻo đường dữ. 
(25) Phiền não lửa dữ 
thiêu đốt chúng sinh
không ai cứu cho 
không nơi nương tựa
Cam lộ mát ngọt 
làm cho sung mãn
thân tâm nóng bức 
đều loại trừ cả. 
(26) Do vậy Như lai 
trong vô số kiếp 
tôn kính hiến cúng 
chư vị Như lai
kiên trì giới pháp 
bước tới bồ đề
mong chứng pháp thân 
thể hiện an lạc
(27) Như lai đem cho 
tai mắt chân tay, 
vợ con tôi tớ 
cũng không tiếc lẫn, 
tài sản vàng ngọc 
cả đồ trang sức, 
tùy ai cầu gì 
Như lai cho cả. 
(28) Tu hành khắp cả 
sáu ba la mật
viên mãn mười địa 
thành chánh giác
thế nên được tôn 
bậc Nhất thế trí, 
không một ai khác 
lường nổi Như lai
(29) Giả sử đất đai 
đại thiên thế giới 
tất cả mọi nơi 
đều mọc cây cối, 
cây lùm cây rừng 
lúa mè tre lau 
cùng với bao nhiêu 
chủng loại cây khác. 
(30) Cây cối như vậy 
đều đốn chặt hết, 
và đem nghiền nhỏ 
thành vi trần cả ; 
tụ vi trần ấy 
thành khối thành đống, 
cho đến tụ lại 
đầy cả không gian
(31) Tất cả quốc độ 
khắp cả mười phương 
có được bao nhiêu 
đại thiên thế giới
đất đai trong đó 
cũng nghiền thành bụi, 
số lượng bụi ấy
hết cách tính toán. 
(31) Giả sử trí tuệ 
của cả chúng sinh 
gom lại thành ra 
trí tuệ một người, 
và người như vậy 
nhiều đến vô số
có thể biết được 
số bụi nói trên. 
(33) Nhưng chỉ một thoáng 
tuệ giác Như lai
mà những người trên 
chung nhau suy lường 
trong những đời kiếp 
nhiều đến vô số
cũng không tính toán 
biết được phần ít. 
Bấy giờ đại hội nghe đức Thế tôn trùng tuyên về cái Không sâu xa, thì có vô lượng chúng sinh thấu triệt bốn đại năm uẩn thể tánh toàn không, sáu căn sáu cảnh chỉ ràng buộc một cách giả dối. Ai cũng nguyện bỏ luân hồi, chính xác tu tập giải thoát, thâm tâm vui mừng, phụng trì đúng lời đức Thế tôn chỉ dạy.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22936)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 11708)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 19222)
"Chỉ vì đại sự nhơn duyên duy nhấtĐức Phật xuất hiện thế gian, đó là muốn mọi người, mọi chúng sanh đều thành Phật đồng như Đức Phật".
(Xem: 24080)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 13300)
Một thời Đức Thế Tôn ở tại cung điện của chú tể Đại dương, cùng với chúng đại tỳ kheo tám ngàn vị và chúng đại bồ tát ba mươi hai ngàn vị.
(Xem: 13057)
Người giảng: Lão Hòa thượng Tịnh Không; Cẩn dịch: Vọng Tây cư sĩ – Viên Đạt cư sĩ; Biên tập: Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 12934)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 215, Hán dịch Pháp Cự; Việt dịch: Thích Bảo An
(Xem: 13062)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 706, Bộ Kinh Tập, Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Thiên Ân
(Xem: 14411)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Hoa Nghiêm, Kinh số 0301, Hán dịch: Thật Xoa Nan Ðà; Việt dịch: HT Thích Minh Lễ
(Xem: 105895)
Sám văn gồm có ba cuốn ngày nay là sám văn ấy. Đem nước từ bi tam muội rửa sạch oan nghiệp nhiều kiếp, lấy ý nghĩa đó để mệnh danh Thủy sám... HT Thích Trí Quang
(Xem: 14658)
Trong đời mạt pháp, các đệ tử của ta chỉ đeo đuổi theo bên ngoài, ít có ai quan niệm đến vấn đề Sanh Tử... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 19865)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0665, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: HT Thích Trí Quang
(Xem: 38501)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0642; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Định Huệ
(Xem: 14096)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0639, Hán dịch: Na Liên Ðề Da Xá, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12886)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0628, Hán dịch: Pháp Thiên, Việt dịch: Thích nữ Tịnh Nguyên
(Xem: 13771)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0626, Hán dịch: Chi Lâu Ca Sấm, Việt dịch: Phật tử Phước Thắng
(Xem: 12581)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0619, Hán dịch: Đàm Ma Mật Đa, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 19453)
Từ Bi Thủy Sám Pháp - Trước thuật: Ngộ Đạt Thiền Sư; Dịch Giả: Thích Huyền Dung
(Xem: 27095)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, số 2076, Nguyên tác Đạo Nguyên, Việt dịch: Lý Việt Dũng
(Xem: 13541)
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí-Tịnh, Anh dịch: Quảng Định / Quảng Hiếu hiệu đính, Sưu tập: Tuệ Uyển
(Xem: 21693)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0615, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 18036)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0614, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 14276)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0600, Hán dịch: Thực Soa Nan Đà, Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 16138)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0599, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 15102)
Đại Chánh Tân Tu - Kinh số 685; Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Hạnh Cơ
(Xem: 14226)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0232 - Hán dịch: Mạn Ðà La Tiên; Việt dịch: HT Thích Minh Lễ
(Xem: 13214)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0226 - Hán dịch: Đàm Ma Ty, Trúc Phật Niệm; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 14475)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0592 - Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 19784)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0590; Hán dịch: Trí NghiêmBảo Vân ; Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo
(Xem: 16761)
Trong Tam tạng Kinh điển tất cả giáo PhápTiểu Thừa hay Đại Thừa, dù tại gia hay xuất gia, Giới Luật luôn là phần trọng yếu nhất... Ngài Hoằng Tán lược sớ - Thích Nữ Trí Hải (tự Như Hải) dịch
(Xem: 21187)
Kinh Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm - Hán dịch: Bát Lạt Mật Đế; Việt dịch và chú thích: Hạnh Cơ
(Xem: 14811)
Đại Thừa Kim Cang Kinh Luận - Dịch giả: TT Thích Viên Giác; Xuất bản năm 1963
(Xem: 39202)
Đêm nay ngày lành Nguyên đán, Giờ này phút thiêng giao thừa, Chúng con : Tuân lệ cổ tục ngày xưa, Mở cửa nghinh xuân tiếp phước.
(Xem: 19407)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0579; Hán dịch: Thất Dịch; Việt dịch: Thích Nữ Diệu Châu
(Xem: 14731)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0549; Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Nữ Diệu Thiện
(Xem: 16162)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 0475 - Duy Ma Cật Sở Thuyết Kinh, Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Do Hòa thượng Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 14717)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0502 - Hán dịch: Sa môn Pháp Cự; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 15244)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0508 - Hán dịch: Sa môn Pháp Cự; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 14930)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0466; Hán dịch: Tỳ Ni Đa Lưu Chi; Việt dịch: Thích Nữ Tuệ Thành
(Xem: 15582)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0464; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 39167)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0456; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 14142)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0455; Hán dịch: Nghĩa Tịnh; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 24532)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0454; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 14401)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0453; Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 19470)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0452; Hán dịch: Thư Cừ Kinh Thanh; Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 18033)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0452; Hán dịch: Thư Cừ Kinh Thanh; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 21483)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0451; Hán dịch: Nghĩa Tịnh; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 19708)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0451; Hán dịch: Nghĩa Tịnh; Việt dịch: Thích Nguyên Chơn
(Xem: 17530)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0450; Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: HT Thích Huyền Dung
(Xem: 14861)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0449; Hán dịch: Ðạt Ma Cấp Ða; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 13905)
Kinh Ưu Bà Tắc, kinh số 128, thuộc bộ Trung A Hàm, tạng Đại Chánh - Hán dịch: Cù Đàm Tăng Già Đề Bà; Việt dịch: cư sĩ Hạnh Cơ
(Xem: 13782)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0516; Hán dịch: Thí Hộ; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 14124)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0762 - Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 21935)
KINH A DI ĐÀ (Văn Vần)... Như Lai Phật Tổ lúc này, Tại vườn Cô Độc rừng cây Kỳ Đà; Cách thành Xá Vệ không xa, Là nơi Phật ở nói ra kinh này... HT Thích Khánh Anh
(Xem: 16760)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0680; Hán dịch: Pháp sư Huyền Trang; Việt dịch: Thích nữ Tịnh Quang
(Xem: 15242)
Kinh Tám Đề Tài Giác Ngộ Của Các Bậc Đại Nhân (Kinh Bát Đại Nhân Giác) - Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Cư sĩ Hạnh Cơ
(Xem: 14548)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0506, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ - Trú xứ Chùa Phật Đà, California, Hoa Kỳ
(Xem: 14068)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0777, Hán dịch: Bạch Pháp Tổ; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ - Trú xứ Chùa Phật Đà, California, Hoa Kỳ
(Xem: 14380)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0367, Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: Quảng Minh
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant