Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phẩm 5: Ca Diếp

03 Tháng Chín 201607:57(Xem: 5333)
Phẩm 5: Ca Diếp

KINH ĐẠI BI

Tam tạng pháp sư Na Liên Đề Da Xá, người nước Thiên-trúc, 
dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, 
vào thời Cao-Tề (Bắc-Tề, 550-577).
Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn,
tại Canada, năm 2016.

 
KINH ĐẠI BI

 Phẩm 5

CA DIẾP

 

Lúc bấy giờ, tôn giả A Nan đang ở bên giường của đức Phật, đau buồn, khóc lóc, nước mắt ràn rụa, đứng không muốn vững, than rằng:

“Đức Thế Tôn nhập niết-bàn sớm quá! Đấng Đại Từ Bi, viên ngọc quí của chúng sinh, ra đi sớm quá! Ngọn đèn lớn của thế gian, cây đuốc lớn của trời người, ẩn mất sớm quá! Hoa sen quí của chúng sinhthế gian ẩn mất sớm quá! Bậc long tượng của chúng sinh, bậc khéo tự điều phục, lại điều phục những chúng sinh chưa được điều phục, ra đi sớm quá! Đấng Đạo Sư vô thượng, chỉ bày cho chúng sinh con đường an ổn, ra đi sớm quá! Con mắt trí tuệ chiếu ánh sáng lớn, soi khắp thế gian, ẩn mất sớm quá! Bậc dẫn đường cho những kẻ mù lòa, bậc cha mẹ của chúng sinhthế gian, diệt độ sớm quá! Thế gian này trở thành cô độc, không nơi nương tựa! Viên ngọc quí của chúng sinh như thế, mà ngày mai con không còn trông thấy nữa, chỉ có danh hiệu là còn lưu lại mà thôi!”

Đức Phật bảo tôn giả A Nan:

“Này A Nan, thầy đừng đau buồn nữa! Như Lai đã từng bảo thầy, tất cả những gì, dù ưa thích, xứng ý đến đâu, đã có hòa hợp thì chắc chắn phải có lìa tan. Này A Nan! Các pháp hữu vi, pháp sinh, pháp có, pháp hiểu biết, pháp nhân duyên, pháp hoại diệt, những pháp ấy nếu không hoại diệt thì không có lẽ đó; những pháp ấy nếu thường trú thì cũng không có lẽ đó; giả sử những pháp ấy được tồn tại lâu dài thì chắc chắn cũng có lúc phải chia lìa. Vì vậy cho nên, này A Nan, thầy chớ lo buồn!”

Lúc ấy tôn giả A Nan chiêm ngưỡng dung nhan đức Thế Tôn, mắt nhìn chăm chú không rời; rồi lại suy nghĩ, lại đau buồn, khóc lóc, nghẹn ngào; rồi quì xuống đất. Đức Phật lại bảo:

“Thôi đi, này A Nan, thầy đừng đau buồn nữa! Đừng dùng sự đau buồn để khiến cho Như Lai trụ thế! Này A Nan! Như Lai đã từng bảo thầy, tất cả những gì, dù ưa thích, xứng ý đến đâu, đã có hòa hợp thì chắc chắn phải có lúc lìa tan; giả sử chúng được tồn tại dài lâu thì cũng phải hoại diệt. Các pháp hành là như vậy. Này A Nan! Thầy đã hầu hạ Như Lai, từ hành động cho đến lời nói, đều bằng tâm từ hiếu, an lạc, trước sau như một, không chút giận hờn, oán trách.”

Tôn giả A Nan đứng dậy, lau nước mắt, bạch Phật rằng:

“Bạch đức Thế Tôn! Làm sao con có thể không đau buồn! Đức Thế Tôn, bậc đại từ bi như thế, bậc đã ra khỏi thế gian, bậc thương xót tất cả thế gian, bậc được tất cả thế gian quí kính và quay về nương tựa, bậc dẫn đường cho tất cả thế gian, bậc làm lợi íchan lạc cho tất cả thế gian, bậc tôn quí của thế gian như thế, mà ngày mai con phải chia lìa!”

Tôn giả lại khóc lớn, rồi lại lau nước mắt, bạch rằng:

“Kì lạ thay, các hành chỉ là xác chếttrở thành đầy quyền năng, có thể khiến cho ngọn đèn lớn như thế, cây đuốc lớn như thế, mặt trời lớn với vô lượng ánh sáng rực rỡ như thế, ẩn mất sớm quá! Bậc trí tuệ lớn, bậc có ánh sáng lớn, ẩn mất ở thế gian sớm quá! Thế gian bây giờ cô độc, vì bậc che chở ra đi sớm quá! Đức Như Lai đầy đủ thần thông biến hóa, nay ẩn mất ở thế gian sớm quá! Bạch đức Thế Tôn, con làm sao mà không đau buồn! Bạch đức Thế Tôn, con còn tự lấy làm lạ rằng, sao trái tim của con hôm nay không bị bể nát thành trăm mảnh! Con cũng tự lấy làm lạ rằng, sao con không chết ngay trước mặt đức Thế Tôn! Chắc chắn là con đã nhờ thần lực của đức Thế Tôn gia trì; vì sao vậy? Vì chính con đã thọ nhận kho tàng Pháp Bảo do đức Thế Tôn trao truyền, ghi nhớ không quên; mà kho tàng Pháp Bảo đó lại chưa được lưu bố rộng rãi cho hàng trời, người khắp mười phương. Bạch đức Thế Tôn, con làm sao mà không đau buồn cho được!  Bạch đức Thế Tôn! Mai kia con trở về thành Ca-tì-la-vệ, mọi người trong dòng họ Thích tập họp lại, hỏi thăm về đức Thế Tôn, con biết nói làm sao với họ đây? Con đâu có thể cam lòng nói với họ rằng, đức Phật Thích Ca Mâu Ni dòng giống Mặt-trời, đấng Pháp Vương vô thượng, bậc tôn quí trong dòng họ Thích, đã nhập niết-bàn rồi! Rồi khi đến thành Vương-xá, con sẽ nói thế nào với vua A Xà Thế? Con đâu có thể cam lòng nói với đức vua rằng, bậc Đạo Sư đã ra đi rồi, vị Y Vương có khả năng nhổ bỏ mũi tên nghiệp vô gián cho thế gian đã ẩn mất rồi! Rồi khi đến thành Xá-vệ, con sẽ nói thế nào với dân chúng trong thành? Con đâu có thể cam lòng nói với họ rằng, đấng Đại Bi thương xót thế gian đã ẩn mất rồi! Rồi khi con đến tinh xá Cấp-cô-độc trong vườn cây Kì-đà, nếu đại chúng hỏi: [Chừng nào đức Thế Tôn trở về tinh xá này?], thì con biết trả lời ra sao! Rồi khi đến thành Tì-xá-li, con sẽ nói làm sao với các vị công tử tộc Li-xa? Con đâu có thể cam lòng nói với họ rằng, bậc Tôn Sư cao cả thương xót tất cả thế gian đã ẩn mất rồi! Rồi khi có các thiện nam tín nữ từ các nơi đến hỏi, con biết trả lời cho họ làm sao? Con đâu có thể cam lòng nói với họ rằng, đấng Đại Trí của thế gian, bậc đã đoạn trừ tất cả mọi nghi hoặc, nay đã ra đi rồi! Rồi khi có các chúng tì-kheo từ các nơi xa đến, mong muốn được trông thấy đức Thế Tôn, hoặc để hỏi thăm, lễ bái, cúng dường; hoặc để hỏi pháp, hỏi giáo nghĩa; hoặc xin bố-tát; con đành phải nói với họ rằng: [Tôi không còn thấy, không còn nghe đức Thế Tôn nói pháp của các bậc thượng nhân nữa!] Sau khi đức Thế Tôn diệt độ, có những bậc tu hành phạm hạnh, đầy đủ thần thông, cũng sẽ ẩn mất ở thế gian. Cho nên con đâu có thể nào mà không đau buồn!”

Tôn giả A Nan bạch xong những lời ấy, đức Phật dạy:

“Này A Nan, thầy đừng đau buồn nữa! Giáo pháp của Như Lai cần được lưu bố rộng rãi, tồn tại lâu dàithế gian để làm lợi ích cho các hàng trời, người. Này A Nan! Sau khi Như Lai diệt độ, trải qua bốn trăm năm, thầy Ca Diếp cùng với thầy và các đệ tử, truyền nối nhau tu hành phạm hạnh để làm lợi ích cho các hàng trời, người. Này A Nan, thầy không nên đau buồn! Chánh pháp của Như Lai cần phải được lưu bố rộng rãi, tồn tại lâu dàithế gian để làm lợi ích cho các hàng trời, người. Sau khi Như Lai nhập niết-bàn, thầy Ca Diếp cùng với thầy, nên phát tâm làm cho pháp bồ-đề vô thượngNhư Lai đã tích tập từ vô số kiếp được hưng thịnh, không suy mất. Vì sao vậy? Này A Nan! Thầy Ca Diếp là người ít ham muốn, biết đủ, xa lìa dục vọng, chuyên cần tinh tấn, luôn có chánh niệm, không hí luận, an trú trong định tuệ. Này A Nan! Thầy Ca Diếp có khả năng chỉ bày, dạy dỗ, khiến cho đại chúng đạt được lợi lạc, và hoan hỉ với các thành tựu của đại chúng; đối với những người tu hành phạm hạnh thì nói pháp không biết mệt mỏi, giống như cha mẹ đối với con cái. Này A Nan! Thầy Ca Diếp thấy biết sâu rộng, thương xót thế gian, vì muốn đem lại lợi ích cho chúng sinh, an lạc cho trời, người, mà phát tâm như thế.”

Bấy giờ tôn giả A Nan bạch Phật rằng:

“Bạch đức Thế Tôn! Tôn giả Ca Diếp phát tâm như thế sẽ đem lại lợi ích an lạc cho bao nhiêu chúng trời, người?”

Đức Phật dạy:

“Thầy Ca Diếp lúc nhập niết-bàn sẽ phát nguyện rằng: [Tôi nguyện, sau khi tôi diệt độ, do thần lực của chính tôi gia trì, khiến cho xác thân tôi và y bát không bị biến hoại. Chờ cho đến khi đức Phật Di Lặc ra đời, chính thân này sẽ diện kiến Ngài, cùng phụ giúp Ngài lập nên pháp hội thứ nhất; rồi đến pháp hội thứ nhì, pháp hội thứ ba, do nguyện lực của tôi gia trì, khiến cho nhiều trăm chúng sinh, nhiều ngàn chúng sinh, nhiều ngàn vạn chúng sinh, vô số chúng sinh chứng quả Thánh. Đức Phật Di Lặc đã thấy thân tôi và y bát không bị biến hoại; chúng Thanh-văn trong cả ba pháp hội cũng đã thấy thân tôi và áo ca-sa không bị biến hoại. Bấy giờ thân tôi sẽ đứng trên hư không, dùng lửa của chính thân mình mà thiêu thân mình. Thiêu xong rồi thì tro cốt biến mất hết.] Này A Nan! Đó là thầy Ca Diếp phát tâm làm lợi ích an lạc cho chúng sinh. Này A Nan! Chính do nguyện lực gia trì mà sau khi thành thục cho chúng sinh rồi thì thầy Ca Diếp nhập niết-bàn. Liền lúc đó, có bốn ngọn núi đá kéo đến, hiệp lại làm một để che phủ xác thân của thầy Ca Diếp. Và như thế, xác thân của thầy Ca Diếp được giữ ở giữa bốn ngọn núi đá kia, không bị biến hoại, cho đến khi đức Phật Di Lặc ra đời. Thân của thầy Ca Diếp tồn tại lâu dài như thế mà không bị biến hoại, và cả tấm áo ca-sa cũng không bị biến hoại, là vì sao vậy? Này A Nan! Vì thầy Ca Diếp là người giữ giới thanh tịnh, là người tu hành phạm hạnh, là người có trí tuệ, cho nên tâm nguyện mới được thành tựu; nếu không giữ giới thanh tịnh, không tu phạm hạnh, không có trí tuệ, thì dù có muốn cũng không thể thành tựu được gì. Này A Nan! Thầy Ca Diếp, trước tiên do nguyện lực mà nhập niết-bàn; nhập niết-bàn rồi thì xác thân tồn tại lâu dài không bị biến hoại, tóc lông máu thịt, các căn, và cả y phục cũng không bị biến hoại, cũng không hôi hám, cho đến khi đức Phật Di Lặc ra đời. Này A Nan! Khi đức Phật Di Lặc ra đời, ở pháp hội thứ nhất, Ngài sẽ dẫn chín mươi sáu ức vị tì-kheo đến chỗ thầy Ca Diếp, chỉ cho đại chúng thấy thân của thầy Ca Diếp, và dạy rằng: [Này các thầy tì-kheo! Thầy Ca Diếp đây là bậc đại Thanh-văn trong thời kì pháp vận của đức Phật Thích Ca Mâu Ni, chuyên tu hạnh đầu-đà, ít ham muốn, biết đủ, xa lìa dục vọng, chuyên cần tinh tấn, luôn có chánh niệm, không hí luận, an trú trong định tuệ. Thầy Ca Diếp có khả năng chỉ bày, dạy dỗ, khiến cho đại chúng đạt được lợi lạc, và hoan hỉ với các thành tựu của đại chúng; đối với những người tu hành phạm hạnh thì nói pháp không biết mệt mỏi, giống như cha mẹ đối với con cái. Này các thầy tì-kheo! Thầy Ca Diếp thấy biết sâu rộng, rốt ráo không còn tâm nghi ngờ, và tùy thuận chúng sinh. Này các thầy tì-kheo! Các thầy hãy xem đó, thầy Ca Diếpthương xót thế gian, muốn đem lại lợi ích cho chúng sinh, an lạc cho trời, người, mà phát tâm như thế.] Này A Nan! Ở pháp hội thứ nhì, đức Phật Di Lặc sẽ dẫn chín mươi bốn ức vị tì-kheo đến chỗ thầy Ca Diếp. Đến pháp hội thứ ba, Ngài sẽ dẫn chín mươi hai ức vị tì-kheo đến chỗ thầy Ca Diếp, chỉ thân của thầy cho đại chúng xem, và dạy rằng: [Này các thầy tì-kheo! Thầy Ca Diếp đây là bậc đại Thanh-văn trong thời kì pháp vận của đức Phật Thích Ca Mâu Ni, chuyên tu hạnh đầu-đà, thiểu dục, tri túc, vì muốn đem lại lợi ích cho chúng sinh, an lạc cho trời, người, mà phát tâm như thế.] Này A Nan! Lúc bấy giờ, đức Phật Di Lặc đưa cánh tay phải ra, rờ trên đầu thầy Ca Diếp, rồi nhìn khắp các vị tì-kheo, nói rằng: [Này các vị tì-kheo! Tì-kheo Ca Diếp đây đã gìn giữ chánh pháp sau khi đức Phật Thích Ca Mâu Ni diệt độ; còn trong khắp đại chúng ở đây, sẽ không có một vị nào gìn giữ chánh pháp của ta sau khi ta diệt độ, giống như thầy Ca Diếp!] Này A Nan! Ở pháp hội thứ ba của đức Phật Di Lặc, thầy Ca Diếp, do nguyện lực của chính mình gia trì, sẽ ở trên không trung, biểu hiện nhiều thứ thần thông biến hóa, rồi dùng lửa của tự thân mà thiêu hủy thân mình; thân xác cháy xong, tro cốt đều biến mất. Sau khi cho đại chúng chứng kiến các sự việc về thầy Ca Diếp, Đức Phật Di Lặc bèn nói pháp cho đại chúng hiện tiền, khiến cho nhiều trăm ngàn ức người, được chứng quả Thánh. Này A Nan! Thầy Ca Diếp phát tâm làm lợi ích cho nhiều chúng sinh, thầy cũng nên phát tâm làm lợi ích, đem lại an lạc cho nhiều chúng sinh. Như thế, này A Nan! Thầy Ca Diếp cùng với thầy hãy phát tâm giữ gìn chánh pháp tồn tại qua bốn trăm năm, tu hành phạm hạnh, làm lợi ích cho hàng trời, người.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 43152)
Đây là một bản kinh Phật đặc sắc, nêu bật lên ý nghĩa nhân quả bằng những truyện tích nhân duyên rất sống động, được thuật lại với nhiều chi tiết thú vị.
(Xem: 43941)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 43029)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366, Đoàn Trung Còn và Nguyễn Minh Tiến dịch
(Xem: 49016)
Có một lúc, đức Phật ở trong núi Kỳ-xà-quật gần thành Vương Xá, cùng với các vị đại tỳ-kheo mười hai ngàn người, đại Bồ Tát là tám mươi ngàn người.
(Xem: 39847)
Bấy giờ, đức Thế Tôn ở giữa đại chúng, vì đại chúngthuyết giảng giáo pháp nhiệm mầu, trừ sạch bốn điên đảo, khiến cho được rõ biết các pháp lành...
(Xem: 53784)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, lúc mới Chuyển pháp luân độ ông A-nhã Kiều-trần-như, đến khi thuyết pháp lần cuối cùng độ ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 36827)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng. Nếu thấy các tướng thật chẳng phải tướng tức là thấy Như Lai.
(Xem: 40815)
Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: "Về phương đông, cách đây vô số cõi Phật nhiều như số cát sông Hằng, có một thế giới tên là Tịnh Lưu Ly.
(Xem: 49740)
Lúc ấy, Bồ Tát Vô Tận Ý từ chỗ ngồi đứng dậy, vén tay áo bên vai mặt, quỳ xuống chắp tay cung kính bạch Phật rằng...
(Xem: 47314)
Thế Tôn thành đạo dĩ, tác thị tư duy: “Ly dục tịch tĩnh, thị tối vi thắng.” Trụ đại thiền định, hàng chư ma đạo. Ư Lộc dã uyển trung...
(Xem: 27702)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 25849)
Quyển Kinh Lời Vàng này nguyên danh là "Phật Giáo Thánh Kinh" do nữ Phật tử Dương Tú Hạc biên trước bằng Hán Văn (người Trung Hoa).
(Xem: 29892)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27174)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 24739)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 21309)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23220)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 23876)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22789)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 29568)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20636)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 34166)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 24672)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30032)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20220)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20402)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15145)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 23878)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
(Xem: 34071)
Tiểu Bộ Kinh - Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
(Xem: 23997)
Quy mạng Lô Xá Na, Mười phương Kim Cương Phật. Ðảnh lễ đức Di Lạc, Sẽ hạ sanh thành Phật. Nay tụng ba tựu giới, Bồ Tát đều cùng nghe.
(Xem: 29180)
Tôi nghe như vầy: Một thời Thế-tôn, châu du giáo hóa các nước đến thành Quảng-nghiêm, ở nghỉ dưới cây Nhạc-âm, cùng với tám ngàn vị đại tỳ-kheo...
(Xem: 60144)
Bồ TátVô Tận Ý Khi bấy giờ chăm chỉ đứng lên Bèn trịch vai hữu một bên Chắp tay cung kính hướng lên Phật đài
(Xem: 27606)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 68736)
Chúng sanh đây có bấy nhiêu Lắng tai nghe lấy những điều dạy răn Các ngươi trước lòng trần tục lắm Nên kiếp nầy chìm đắm sông mê
(Xem: 24514)
Một thuở nọ Thế Tôn an trụ Xá Vệ thành Kỳ Thụ viên trung Mục Liên mới đặng lục thông Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm luân.
(Xem: 26354)
Lăng-già (Lanka) là tên núi, núi này do sản xuất châu Lăng-già nên lấy tên châu mà gọi tên núi. Núi nằm tại biển Nam là chỗ ở của Dạ-xoa.
(Xem: 20822)
Lư hương xạ nhiệt, Pháp-giới mông huân. Chư Phật hải hội tất diêu văn, Tùy xứ kiết tường vân
(Xem: 20056)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phảng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 27552)
Làm người Phật tử ở đời Đêm ngày tụng niệm những lời dạy khuyên Tám điều giác ngộ kinh truyền Ghi lòng tạc dạ tinh chuyên tu hành
(Xem: 46424)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 25575)
Phụng dịch theo bản đời Đường của Ngài Thiệt Xoa Nan Đà. Tham khảo các bản dịch đời Ngụy, Tống và bản dịch Anh Ngữ của Suzuki. - Dịch Giả: Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 29263)
VIMALAKĪRTINIRDEŚA - SŪTRA - Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết - Đường Huyền Trang dịch - bản dịch Việt: Tuệ Sỹ
(Xem: 188953)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi tam-bảo
(Xem: 27425)
Thắng Man Phu nhân điển hình cho phụ nữ thực hành Bồ tát đạo bằng cung cách trang nhã, từ ái, khiêm cung. Môi trường thực hành bao gồm từ giới hạn thân thuộc...
(Xem: 31135)
Kinh Pháp Cú (Kinh Lời Vàng), The Path of Truth - Việt dịch: Hòa Thượng Thích Minh Châu - Họa sĩ: Mr. P. Wickramanayaka (vẽ theo bản tiếng Anh mà HT Thích Minh Châu dịch) - Vi tính: Tâm Tịnh
(Xem: 33164)
Tích truyện Pháp Cú - Thiền viện Viên Chiếu - Nguyên tác: "Buddhist Legends", Eugène Watson Burlingame
(Xem: 24025)
Sau 45 năm thuyết pháp, những lời giảng daỵ của Đức Phật không những không bị quên lãng, thất lạc mà còn được lưu giữ, truyền bá mãi đến ngày nay...
(Xem: 25602)
Ta Bà là chốn tạm ở thôi Cửa không mau phải hồi đầu lại Hai sáu nguyện vương tiêu tai chướng Ba ngàn hoá Phật chứng lòng thành
(Xem: 26689)
Cuộc đối thoại đầy đạo vị hứng thú dĩ nhiên được truyền tụng khắp nơi trong giới Phật giáo cũng như ngoài nhân gian. Về sau, vào thế kỷ đầu sau Tây lịch, sợ để khẩu truyền lâu ngày
(Xem: 36640)
Ở phương Ðông cách đây hơn mười căn dà sa cõi Phậtmột thế giới tên là Tịnh Lưu Ly. Ðức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai
(Xem: 27329)
Lúc Đức Phật Thích-ca chứng đắc, Chuyển bánh xe chánh pháp độ sanh, Kiều-trần-như được duyên lành, Năm anh em họ viên thành lý chân,
(Xem: 30368)
Phật Thùy Ban Niết Bàn Lược Thuyết Giáo Giới Kinh (Kinh Di Giáo) - Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0389 - Cưu Ma La Thập dịch Hán; HT. Thích Trí Quang dịch Việt
(Xem: 37310)
Một thời Ðức Phật ở nước Xá Vệ, trong vườn Cấp Cô Ðộc, cây của thái tử Kỳ Ðà, cùng với các đại Tỳ Kheo Tăng... Thích Minh Định dịch
(Xem: 23889)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Kỳ Thọ Cấp Cô Độc gần thành Xá Vệ, với đại chúng khất sĩ gồm một ngàn hai trăm năm mươi vị. Hôm ấy vào giờ khất thực, Bụt mặc áo và ôm bát đi vào thành Xá Vệ.
(Xem: 36966)
Khuyến phát Bồ Đề Tâm văn; Âm Hán Việt: Cổ Hàng Phạm Thiên Tự Sa môn Thật Hiền soạn; Dịch: Sa môn Thật Hiền chùa Phạm Thiên Cổ Hàng soạn
(Xem: 27598)
Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm Kinh - Năm trăm Danh Hiệu Phật và Bồ Tát Quán Thế Âm
(Xem: 28333)
Công Phu Khuya
(Xem: 24159)
Nói một cách vắn tắt, sự xuất hiện của Duy-ma-cật là xu hướng khẳng định vai trò tích cực của chúng đệ tử tại gia trong giáo pháp của Phật, về các mặt hành đạo cũng như hóa đạo.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant