Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phẩm 8: Lễ Bái

03 Tháng Chín 201607:57(Xem: 5262)
Phẩm 8: Lễ Bái

KINH ĐẠI BI

Tam tạng pháp sư Na Liên Đề Da Xá, người nước Thiên-trúc, 
dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, 
vào thời Cao-Tề (Bắc-Tề, 550-577).
Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn,
tại Canada, năm 2016.

 
Kinh Đại Bi

 Phẩm 8

LỄ BÁI


Lúc bấy giờ đức Phật lại bảo tôn giả A Nan:

“Nếu có người nghe được danh hiệu của Phật, Như Lai nói rằng, người đó chắc chắn sẽ được vào niết-bàn. Này A Nan! Nếu có người xưng niệm ‘Nam mô Phật’, sự việc đó có ý nghĩa gì?”

Tôn giả A Nan bạch rằng:

“Phật là gốc của tất cả các pháp. Phật là con mắt dẫn đường. Phật diễn nói tất cả giáo pháp. Lành thay, bạch đức Thế Tôn! Cúi xin đức Thế Tôn vì chư vị tì-kheo mà giảng rõ ý nghĩa ấy. Chúng con xin lắng nghe và nguyện thọ trì.”

Đức Phật bảo tôn giả A Nan:

“A Nan! Thầy hãy lắng nghe và suy nghĩ chín chắn, Như Lai sẽ vì thầy mà giảng nói. Này A Nan! Câu ‘Nam mô Phật’ chắc thật là âm thanh danh hiệu của chư Phật Thế Tôn. Vì để quyết định đây là âm thanh danh hiệu của chư Phật, cho nên xưng niệm ‘Nam mô Phật’. Này A Nan! Để làm rõ ý nghĩa này, Như Lai sẽ nói một thí dụ sau đây, khiến cho chúng sinh tăng trưởng lòng tin đối với giáo pháp; lại khiến cho tất cả thiện nam tín nữ, khi nghe được âm thanh danh hiệu của chư Phật Thế Tôn, liền phát sinh lòng kính tin sâu xa. Này A Nan! Hồi đời quá khứ, có một vị đại thương chủ dẫn theo các thương nhân đi ra biển cả. Khi thuyền của họ đã ra khơi, thình lình một con cá ma-kiệt rất lớn lao tới, há miệng muốn nuốt hết mọi người. Lúc ấy, vị thương chủ và các thương nhân vô cùng hoảng hốt, lông tóc dựng đứng. Tất cả thương nhân đều kinh sợ, lo lắng cho mạng sống sắp chấm dứt, không ai cứu hộ, không có chỗ nương cậy. Họ buồn khóc thảm thiết, than rằng: [Ôi đau đớn thay! Nơi đất liền sao mà vui thế, sao mà hiếm có như thế! Thế gian thân người khó được; thế mà giờ đây chúng ta sắp phải xa lìa cha mẹ, anh chị em, vợ con, họ hàng, bè bạn! Chúng ta lại cũng không còn thấy được Phật, Pháp và Chúng Tăng!] Họ càng than thở thì càng lo âu, đau buồn. Chẳng biết cách nào khác, họ đành cầu khẩn chư vị thiên thần cứu giúp họ. Nhưng, này A Nan! Vị thương chủ kia vốn là người có chánh kiến, tâm trí sáng suốt, đầy đủ lòng tin thanh tịnh đối với Phật Pháp Tăng; không tin thờ chư vị thiên thần. Lúc bấy giờ ông bảo các thương nhân rằng: [Chư vị nên biết! Nếu muốn thoát khỏi được ách nạn này, chư vị hãy cùng lúc đồng thanh nói theo tôi. Giả sử không thoát khỏi được ách nạn ngày hôm nay, thì những lời nói này cũng khiến cho chúng ta đời sau được sinh vào các cõi lành.] Các thương nhân nghe như vậy, đồng nói rằng: [Thưa ngài thương chủ, chúng tôi nguyện nghe theo lời dạy bảo của ngài, xin ngài cứ nói!] Này A Nan! Lúc đó, vị thương chủ liền trật vai áo bên phải, quì gối xuống sàn thuyền, nhất tâm niệm Phật, chắp tay lễ lạy, lớn tiếng xướng lên rằng: ‘Nam mô chư Phật, bậc đại vô úy, bậc đại từ bi, bậc thương xót tất cả chúng sinh.’ Ông xướng như vậy ba lần. Tiếp theo, các thương nhân chắp tay lễ lạy, cùng nhau đồng xướng lên rằng: ‘Nam mô chư Phật, bậc bố thí vô úy, bậc đại từ bi, bậc thương xót tất cả chúng sinh.’ Họ cũng cùng xướng ba lần như vậy. Lúc bấy giờ, con cá ma-kiệt kia nghe được âm thanh danh hiệu của chư Phật, liền sinh lòng quí kính, dứt bỏ tâm giết hại, ngậm miệng lại. Này A Nan! Vị đại thương chủ cùng các thương nhân, bấy giờ đều được thoát nạn, chèo thuyền trở về đất liền bình an. Riêng con cá ma-kiệt, do nghe được âm thanh danh hiệu của chư Phật mà sinh tâm vui mừng, lại dứt bỏ tâm giết hại chúng sinh, nên sau đó mạng chung, được sinh lên làm người, được gặp Phật pháp, phát khởi lòng tin thanh tịnh, bỏ nhà đi xuất gia, được thân cận các bậc thiện tri thức, chứng quả A-la-hán, có đầy đủ sáu thần thông, rồi nhập vô dư niết-bàn. Này A Nan! Thầy xem đấy, con cá kia vốn sinh làm loài súc sinh, nhưng vì được nghe danh hiệu Phật mà được sinh làm người; đã được sinh làm người lại được xuất gia; đã xuất gia lại được chứng quả A-la-hán và nhập niết-bàn! Này A Nan! Thầy xem đấy, thần lực của chư Phật là như thế đó. Con cá kia nghe được danh hiệu Phật mà được thần thông. Xưng dương danh hiệu Phật thì nhất định có được lợi ích lớn; huống chi, nếu có người được nghe danh hiệu Phật, lại được nghe chánh pháp, được trồng căn lành ngay ở đất Phật, mà không được lợi ích lớn lao ư?

“Này A Nan! Như lúc trước Như Lai đã nói, trồng căn lành một vài phần thì sẽ được phước báo một vài phần; trồng căn lành toàn phần thì sẽ được phước báo toàn phần. Này A Nan! Người trồng căn lành ‘một vài phần’, có nghĩa, người này vì muốn chóng được thành tựu, nên gieo hạt giống Thanh-văn, được nhập vào Thanh-văn thừa, và do căn lành ấy mà chứng được đầy đủ quả vị của hàng Thanh-văn; hoặc có người gieo hạt giống Duyên-giác, được nhập vào Duyên-giác thừa, và do căn lành đó mà chứng được đầy đủ quả vị của hàng Duyên-giác. Này A Nan! Đó là ý nghĩa của câu ‘trồng căn lành một vài phần’ mà Như Lai vừa nói. Còn câu ‘trồng căn lành toàn phần’ là chỉ cho người từ vô thỉ đến nay, luôn gieo trồng hạt giống Phật nơi đất Phật. Tất cả các căn lành tích tập trải qua thời gian tu hành lâu xa đó sẽ tạo nên nhân duyên được gặp chư Phật. Được gặp chư Phật rồi, người đó lại muốn tích tập đầy đủ căn lành cho quả vị Bồ-đề. Khi đã tích tập đầy đủ căn lành cho quả vị Bồ-đề, thì người đó thành tựu quả Phật, được tôn xưng là đức Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri; thanh danh vang động khắp thế gian. Đó gọi là ‘tu hành toàn phần’. Này A Nan! Sự ‘tu hành toàn phần’ này, trước đây rải rác trong các kinh, Như Lai đã nói rõ, thầy nên tuần tự đọc tụng để hiểu biết. Thầy hãy nhớ: Tu hành một ít phần thì sẽ đạt được kết quả một ít phần; tu hành toàn phần thì sẽ đạt được kết quả toàn phần.

“Lại nữa, này A Nan! Trong các kinh trước đây, có chỗ Như Lai cũng nói: [Cho đến thọ trì bốn câu kệ.], là đối với những kẻ độn căn, kém trí, đức mỏng mà Như Lai tùy nghi nói như thế. Này A Nan! Như Lai vì tất cả những kẻ không có chỗ quay về mà làm chỗ quay về; vì những kẻ không nhà mà làm nhà; vì những kẻ không có người cứu hộ mà làm người cứu hộ; làm ngọn đèn sáng cho những kẻ bị tối tăm; làm con mắt cho những kẻ mù lòa. Này A Nan! Tất cả những kẻ ngoại đạo không có trí tuệ, không thể tự cứu mình thì làm sao cứu được người khác! Làm sao làm chỗ quay về cho người khác!

“Này A Nan! Như Lai là bậc Thầy dạy dỗ tất cả trời, người; là người thương xót tất cả chúng sinh. Trong đời vị lai, khi giáo pháp sắp diệt mất, sẽ có các tì-kheo và tì-kheo-ni, tuy đã được xuất gia trong giáo pháp của Như Lai, nhưng họ nắm tay trẻ nít cùng đi rong chơi, từ quán rượu này đến quán rượu khác; sống trong giáo pháp của Như Lai mà không tu phạm hạnh. Tuy họ sống bất chính như vậy, nhưng ở ngay trong kiếp Hiền này, tất cả đều đạt được đạo quả niết-bàn. Thế nào là kiếp Hiền? Này A Nan! Cõi ba ngàn đại thiên thế giới này, khi kiếp sắp hình thành, thì tất cả toàn là nước. Chư thiêncõi trời Tịnh-cư dùng thiên nhãn xem thấy thế giới này chỉ toàn là nước; nơi đó có ngàn cành hoa sen vi diệu, mỗi hoa sen đều có ngàn cánh, màu vàng chiếu ra ánh sáng vàng rực rỡ, hương thơm ngào ngạt. Chư thiên cõi trời Tịnh-cư thấy như vậy, tâm rất hoan hỉ, cùng khen ngợi rằng: [Kì lạ thay! Kì lạ thay! Thật là hi hữu! Thật là hi hữu!] Ở trong kiếp này sẽ có một ngàn đức Phật ra đời, vì vậy mà kiếp này được gọi là kiếp Hiền. Này A Nan! Sau khi Như Lai diệt độ, trong kiếp Hiền này, sẽ còn chín trăm chín mươi sáu đức Phật ra đời; trước Như Lai, đức Phật ra đời đầu tiên là Câu Lưu Tôn, Như Lai là thứ tư, tiếp theo sau Như Laiđức Phật Di Lặc; và đức Phật ra đời cuối cùng trong kiếp Hiền này là Lô Giá; thứ tự như thế, thầy nên biết. Này A Nan! Ở trong giáo pháp của Như Lai, có những vị sa-môn mà lại làm ô nhiễm hạnh sa-môn; tự xưng là sa-môn nhưng chỉ có hình tướng giống sa-môn, vì có mặc áo ca-sa. Mặc dù vậy, trong kiếp Hiền này, kể từ đức Phật Di Lặc cho đến đức Phật cuối cùng là Lô Giá, tất cả những vị ấy đều tuần tự sẽ đạt được đạo quả niết-bàn, không sót một vị nào. Vì sao vậy? Này A Nan! Tất cả những vị sa-môn ấy, thế nào cũng có một lần phát tâm kính tin và xưng niệm danh hiệu Phật; công đức từ đó phát sinh ra, và không bao giờ tiêu mất. Này A Nan! Như Lai dùng Phật trí quán sát pháp giới, không có điều gì mà không biết. Này A Nan! Phàm tạo nghiệp trắng thì sẽ nhận được quả báo trắng; tạo nghiệp đen thì sẽ chịu quả báo đen. Nếu có người đem tâm thanh tịnh, xưng niệm một câu ‘Nam Mô Phật’, thì, này A Nan! Người ấy đã gieo trồng căn lành cho đạo quả niết-bàn, và sự gieo trồng như thế cứ được tiếp nối, chắc chắn người ấy sẽ chứng đạt tận cùng cảnh giới niết-bàn; huống chi có người được gặp Phật mà chí thành cung kính, tôn trọng cúng dường, và sau khi Phật diệt độ lại cúng dường xá-lợi! Này A Nan! Những vị sa-môn mà lại làm ô nhiễm hạnh sa-môn kia, họ tự xưng là sa-môn nhưng chỉ có hình tướng giống sa-môn thôi, thế mà, chỉ cần một lần xưng niệm danh hiệu Phật, họ cũng sẽ đạt đến đạo quả niết-bàn; huống chi họ còn sinh tâm kính tin và gieo trồng nhiều căn lành! Này A Nan! Trong ý nghĩa đó, Như Lai nói bài kệ sau đây:

“Chư Phật thật không thể nghĩ bàn,

Chánh pháp của chư Phật cũng vậy.

Nếu kính tin ‘không thể nghĩ bàn’,

Được phước báo không thể nghĩ bàn.

Các đức Như Lai trong quá khứ,

Thương xót chúng sinh, làm ánh sáng,

Cũng từng cúng dường vô lượng Phật,

Chứng ngộ Bồ-đề không kể số.

Như Lai ngày xưa thường bố thí,

Bình đẳng thương xót các chúng sinh,

Tín tâm thanh tịnh luôn tinh tấn,

Tinh cần hóa độ cho tất cả,

Quí trọng chúng sinh như cha mẹ,

Anh em, họ hàng, thiện tri thức,

Đối với thân thích không sân hận,

Chứng ngộ Bồ-đề không kể số.

Khi ta cầu đạo quả Bồ-đề,

Trải vô lượng kiếp hành bố thí,

Tâm từ bi thương xót chúng sinh,

Bỏ cả thân, đầu, mắt, máu, thịt,

Cũng bỏ cả vô lượng ngôi vua,

Bỏ cả thê thiếp cùng con cái,

Vô lượng voi, ngựa, xe quí báu,

Chỉ cầu đạo Bồ-đề vô thượng.

Trong vô lượng ngàn muôn ức kiếp,

Đến đi đều với chí tinh cần,

Tâm thanh tịnh thực hành bố thí,

cầu đạo Bồ-đề vô thượng.

Nhẫn nại nhận chịu vô lượng khổ,

Giá lạnh, nóng bức, cùng đói khát,

Dù chết không rời tâm tinh tấn,

cầu đạo Bồ-đề vô thượng.

Dù cho trăm năm hay một kiếp,

Như lai không thể nào nói hết

Lòng thương xót tất cả chúng sinh,

cầu đạo Bồ-đề vô thượng.

Khi ta còn luân hồi sinh tử,

Được gặp trăm ngàn ức chư Phật,

Đều là các bậc đại thế lực,

Ta thường dâng cúng hoa bằng vàng,

Món ăn trân quí và y phục,

Tràng hoa, hương thoa và hương bột,

Cờ, phướn, lọng che đều quí báu;

Cúng dường chư Phật như thế đó.

Đối với chúng sinh nhiều vô luợng,

Lưu chuyển trong luân hồi sinh tử,

Ta thường đến họ để an ủi.

Ta luôn thực hành hạnh bố thí,

Trì giới, nhẫn nhụctinh tấn,

Thiền định tam muộitrí tuệ;

Tu tập bốn lãnh vực quán niệm,

Bốn chánh cần và bốn thần túc,

Năm khả năng cùng năm sức mạnh;

Hành trì bảy yếu tố giác ngộ,

Tám nguyên tắc hành động chân chánh;

Tu tập các pháp trợ đạo ấy,

cầu đạo Vô-thượng Bồ-đề.

Ta dùng chánh trí tu các nghiệp,

Không xen lẫn một điều bất thiện,

Tu tập các hạnh, không buông lung,

Không một mảy may gây tội lỗi.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 43152)
Đây là một bản kinh Phật đặc sắc, nêu bật lên ý nghĩa nhân quả bằng những truyện tích nhân duyên rất sống động, được thuật lại với nhiều chi tiết thú vị.
(Xem: 43944)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 43030)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366, Đoàn Trung Còn và Nguyễn Minh Tiến dịch
(Xem: 49016)
Có một lúc, đức Phật ở trong núi Kỳ-xà-quật gần thành Vương Xá, cùng với các vị đại tỳ-kheo mười hai ngàn người, đại Bồ Tát là tám mươi ngàn người.
(Xem: 39848)
Bấy giờ, đức Thế Tôn ở giữa đại chúng, vì đại chúngthuyết giảng giáo pháp nhiệm mầu, trừ sạch bốn điên đảo, khiến cho được rõ biết các pháp lành...
(Xem: 53785)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, lúc mới Chuyển pháp luân độ ông A-nhã Kiều-trần-như, đến khi thuyết pháp lần cuối cùng độ ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 36827)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng. Nếu thấy các tướng thật chẳng phải tướng tức là thấy Như Lai.
(Xem: 40815)
Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: "Về phương đông, cách đây vô số cõi Phật nhiều như số cát sông Hằng, có một thế giới tên là Tịnh Lưu Ly.
(Xem: 49740)
Lúc ấy, Bồ Tát Vô Tận Ý từ chỗ ngồi đứng dậy, vén tay áo bên vai mặt, quỳ xuống chắp tay cung kính bạch Phật rằng...
(Xem: 47315)
Thế Tôn thành đạo dĩ, tác thị tư duy: “Ly dục tịch tĩnh, thị tối vi thắng.” Trụ đại thiền định, hàng chư ma đạo. Ư Lộc dã uyển trung...
(Xem: 27711)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 25850)
Quyển Kinh Lời Vàng này nguyên danh là "Phật Giáo Thánh Kinh" do nữ Phật tử Dương Tú Hạc biên trước bằng Hán Văn (người Trung Hoa).
(Xem: 29892)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27176)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 24750)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 21310)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23222)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 23876)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22791)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 29568)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20636)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 34166)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 24673)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30033)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20221)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20403)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15145)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 23880)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
(Xem: 34071)
Tiểu Bộ Kinh - Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
(Xem: 24000)
Quy mạng Lô Xá Na, Mười phương Kim Cương Phật. Ðảnh lễ đức Di Lạc, Sẽ hạ sanh thành Phật. Nay tụng ba tựu giới, Bồ Tát đều cùng nghe.
(Xem: 29181)
Tôi nghe như vầy: Một thời Thế-tôn, châu du giáo hóa các nước đến thành Quảng-nghiêm, ở nghỉ dưới cây Nhạc-âm, cùng với tám ngàn vị đại tỳ-kheo...
(Xem: 60145)
Bồ TátVô Tận Ý Khi bấy giờ chăm chỉ đứng lên Bèn trịch vai hữu một bên Chắp tay cung kính hướng lên Phật đài
(Xem: 27606)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 68736)
Chúng sanh đây có bấy nhiêu Lắng tai nghe lấy những điều dạy răn Các ngươi trước lòng trần tục lắm Nên kiếp nầy chìm đắm sông mê
(Xem: 24522)
Một thuở nọ Thế Tôn an trụ Xá Vệ thành Kỳ Thụ viên trung Mục Liên mới đặng lục thông Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm luân.
(Xem: 26355)
Lăng-già (Lanka) là tên núi, núi này do sản xuất châu Lăng-già nên lấy tên châu mà gọi tên núi. Núi nằm tại biển Nam là chỗ ở của Dạ-xoa.
(Xem: 20822)
Lư hương xạ nhiệt, Pháp-giới mông huân. Chư Phật hải hội tất diêu văn, Tùy xứ kiết tường vân
(Xem: 20057)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phảng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 27552)
Làm người Phật tử ở đời Đêm ngày tụng niệm những lời dạy khuyên Tám điều giác ngộ kinh truyền Ghi lòng tạc dạ tinh chuyên tu hành
(Xem: 46425)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 25575)
Phụng dịch theo bản đời Đường của Ngài Thiệt Xoa Nan Đà. Tham khảo các bản dịch đời Ngụy, Tống và bản dịch Anh Ngữ của Suzuki. - Dịch Giả: Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 29263)
VIMALAKĪRTINIRDEŚA - SŪTRA - Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết - Đường Huyền Trang dịch - bản dịch Việt: Tuệ Sỹ
(Xem: 188956)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi tam-bảo
(Xem: 27426)
Thắng Man Phu nhân điển hình cho phụ nữ thực hành Bồ tát đạo bằng cung cách trang nhã, từ ái, khiêm cung. Môi trường thực hành bao gồm từ giới hạn thân thuộc...
(Xem: 31135)
Kinh Pháp Cú (Kinh Lời Vàng), The Path of Truth - Việt dịch: Hòa Thượng Thích Minh Châu - Họa sĩ: Mr. P. Wickramanayaka (vẽ theo bản tiếng Anh mà HT Thích Minh Châu dịch) - Vi tính: Tâm Tịnh
(Xem: 33165)
Tích truyện Pháp Cú - Thiền viện Viên Chiếu - Nguyên tác: "Buddhist Legends", Eugène Watson Burlingame
(Xem: 24025)
Sau 45 năm thuyết pháp, những lời giảng daỵ của Đức Phật không những không bị quên lãng, thất lạc mà còn được lưu giữ, truyền bá mãi đến ngày nay...
(Xem: 25620)
Ta Bà là chốn tạm ở thôi Cửa không mau phải hồi đầu lại Hai sáu nguyện vương tiêu tai chướng Ba ngàn hoá Phật chứng lòng thành
(Xem: 26707)
Cuộc đối thoại đầy đạo vị hứng thú dĩ nhiên được truyền tụng khắp nơi trong giới Phật giáo cũng như ngoài nhân gian. Về sau, vào thế kỷ đầu sau Tây lịch, sợ để khẩu truyền lâu ngày
(Xem: 36659)
Ở phương Ðông cách đây hơn mười căn dà sa cõi Phậtmột thế giới tên là Tịnh Lưu Ly. Ðức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai
(Xem: 27346)
Lúc Đức Phật Thích-ca chứng đắc, Chuyển bánh xe chánh pháp độ sanh, Kiều-trần-như được duyên lành, Năm anh em họ viên thành lý chân,
(Xem: 30370)
Phật Thùy Ban Niết Bàn Lược Thuyết Giáo Giới Kinh (Kinh Di Giáo) - Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0389 - Cưu Ma La Thập dịch Hán; HT. Thích Trí Quang dịch Việt
(Xem: 37319)
Một thời Ðức Phật ở nước Xá Vệ, trong vườn Cấp Cô Ðộc, cây của thái tử Kỳ Ðà, cùng với các đại Tỳ Kheo Tăng... Thích Minh Định dịch
(Xem: 23891)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Kỳ Thọ Cấp Cô Độc gần thành Xá Vệ, với đại chúng khất sĩ gồm một ngàn hai trăm năm mươi vị. Hôm ấy vào giờ khất thực, Bụt mặc áo và ôm bát đi vào thành Xá Vệ.
(Xem: 36967)
Khuyến phát Bồ Đề Tâm văn; Âm Hán Việt: Cổ Hàng Phạm Thiên Tự Sa môn Thật Hiền soạn; Dịch: Sa môn Thật Hiền chùa Phạm Thiên Cổ Hàng soạn
(Xem: 27598)
Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm Kinh - Năm trăm Danh Hiệu Phật và Bồ Tát Quán Thế Âm
(Xem: 28334)
Công Phu Khuya
(Xem: 24159)
Nói một cách vắn tắt, sự xuất hiện của Duy-ma-cật là xu hướng khẳng định vai trò tích cực của chúng đệ tử tại gia trong giáo pháp của Phật, về các mặt hành đạo cũng như hóa đạo.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant