Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

98. Kinh Vàsettha (Vàsettha sutta)

10 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 16450)
98. Kinh Vàsettha (Vàsettha sutta)

Ðại Tạng Kinh Việt Nam
KINH TRUNG BỘ
Majjhima Nikàya
Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt

98. Kinh Vàsettha
(Vàsettha sutta)

Như vầy tôi nghe. 

Một thời Thế Tôn trú ở Icchanankala (Y-xa-năng -gia-la), tại khu rừng Icchanankala. 

Lúc bấy giờ có rất nhiều Bà-la-môn danh tiếnggiàu có trú tại Icchanankala như Bà-la-môn Canki, Bà-la-môn Tarukkha, Bà-la-môn Pokkharasati, Bà-la-môn Janussoni, Bà-la-môn Todeyya cùng rất nhiều Bà-la-môn danh tiếnggiàu có khác. Rồi trong khi các thanh niên Bà-la-môn Vasettha và Bharadvaja đang tản bộ du hành, câu chuyện sau đây được khởi lên: "Thế nào là một vị Bà-la-môn?"

Thanh niên Bharadvaja nói như sau: 

-- Nếu ai thiện sanh từ mẫu hệ và phụ hệ, huyết thống thanh tịnh cho đến bảy đời tổ phụ, không bị một vết nhơ nào, không bị một dèm pha nào về vấn đề huyết thống thọ sanh, như vậy là làm một vị Bà-la-môn. 

Thanh niên Vasettha nói như sau: 

-- Nếu ai có giới hạnhthành tựu các cấm giới, như vậy là một vị Bà-la-môn. 

Thanh niên Bà-la-môn Bharadvaja không thể thuyết phục thanh niên Bà-la-môn Vasettha, và thanh niên Bà-la-môn Vasettha không thể thuyết phục thanh niên Bharadvaja. Rồi thanh niên Bà-la-môn Vasettha nói với thanh niên Bà-la-môn Bharadvaja: 

-- Này Bharadvaja, Sa-môn Gotama này là Thích tử, xuất gia từ dòng họ Thích-ca, nay đang trú ở Icchanankala, tại khu rừng Icchanankala. Tiếng đồn tốt đẹp sau đây được truyền đi về Tôn giả Gotama: "Ðây là Thế Tôn... Phật, Thế Tôn". Này Tôn giả Bharadvaja, chúng ta hãy đến Sa-môn Gotama, sau khi đến hãy hỏi Tôn giả Gotama về nghĩa lý này, và Sa-môn Gotama trả lời như thế nào, chúng ta sẽ như vậy thọ trì

-- Thưa vâng. 

Thanh niên Bà-la-môn Bharadvaja vâng đáp thanh niên Vasettha. Rồi thanh niên Bà-la-môn Vasettha và Bharadvaja cùng đi đến Thế Tôn, sau khi đến, nói lên với Thế Tôn những lời chào đón hỏi thăm, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, thanh niên Bà-la-môn Vasettha dùng những bài kệ bạch Thế Tôn

Chúng con cả hai người, 
Ðược tôn xưng, tự nhận, 

Là những bậc thông thái

Cả ba tập Vệ-đà. 

Con là đệ tử Ngài, 
Pokkharasati, 

Còn vị thanh niên này, 

Ðệ tử Tarukkha. 

Ba Vệ-đà nói gì, 
Chúng con đều thông đạt

Văn cúvăn phạm

Chúng con đều thấu hiểu, 

Thuyết giảnggiải thích

Thật giống bậc Ðạo sư. 

Tôn giả Gotama, 
Giữa hai người chúng con

Có sự tranh luận này, 

Về huyết thống thọ sanh. 

Bharadvaja nói: 
"Chính do sự thọ sanh".

Con nói: "Do hành động, 

Mới thành Bà-la-môn".

Mong bậc có Pháp nhãn
Hiểu cho là như vậy.

Cả hai người chúng con, 

Không thể thuyết phục nhau. 

Chúng con đến hỏi Ngài, 

Bậc Chánh Giác tôn xưng. 

Như trăng được tròn đầy, 
Quần chúng đến chấp tay,

Ðảnh lễ và chiêm ngưỡng

Cũng vậy, ở trong đời

Quần chúng đến đảnh lễ

Gotama Tôn giả

Chúng con đến hỏi Ngài, 
Bậc Pháp nhãn thế gian

Bà-la-môn do sanh, 

Hay chính do hành động? 

Chúng con không được biết, 

Hãy nói chúng con biết. 

Ðức Thế Tôn bèn nói:
Này Ông Vasettha, 
Ta trả lời cho Ông, 

Thuận thứnhư thật

Sự phân loại do sanh, 

Của các loại hữu tình

Chính do sự sanh đẻ, 

Do sanh, có dị loại. 

Hãy xem cỏ và cây, 
Dầu chúng không nhận thức

Chúng có tướng thọ sanh, 

Do sanh, có dị loại. 

Hãy xem loại côn trùng, 
Bướm đêm, các loại kiến, 

Chúng có tướng thọ sanh, 

Do sanh, có dị loại. 

Hãy xem loại bốn chân, 
Loại nhỏ và loại lớn, 

Chúng có tướng thọ sanh, 

Do sanh, có dị loại. 

Hãy xem loài bò sát, 
Loại rắn, loại lưng dài, 

Chúng có tướng thọ sanh, 

Do sanh, có dị loại. 

Hãy xem các loại cá,
Loại sinh sống trong nước, 

Chúng có tướng thọ sanh,

Da sanh, có dị loại. 

Hãy xem các loại chim, 
Loại có cánh trên trời

Chúng có tướng thọ sanh,

Do sanh, có dị loại. 

Tùy theo sự thọ sanh, 
Chúng có tướng tùy sanh. 

Trong thế giới loài Người

Tướng sanh không có nhiều.

Không ở đầu mái tóc, 
Không ở tai, ở mắt,

Không ở miệng, ở mũi, 

Không ở môi, ở mày, 

Không ở cổ, ở nách, 

Không ở bụng, ở lưng, 

Không ở ngực, ở vú, 

Không âm hộ, hành dâm. 

Không ở tay, ở chân, 
Không ở ngón, ở móng, 

Không ở cổ chân, vế, 

Không ở sắc, ở tiếng. 

Không tướng, do tùy sanh, 
Tùy sanh, loại sai khác.

Trên tự thân con người

Không có gì đặc biệt

Chỉ tùy theo danh xưng, 

Loài Người được kêu gọi.

Ðối người tự sinh sống. 
Chăn bò, lo ruộng đất, 

Vasettha hãy biết, 

Kẻ ấy là nông phu, 

Không phải Bà-la-môn. 

Ai sống theo nghề nghiệp, 
Vasettha hãy biết, 

Kẻ ấy là công thợ, 

Không phải Bà-la-môn.

Ai sống nghề buôn bán, 
Vasettha hãy biết, 

Kẻ ấy là thương nhân

Không phải Bà-la-môn. 

Ai sống hầu hạ người, 
Vasettha hãy biết, 

Kẻ ấy là nô bộc

Không phải Bà-la-môn. 

Ai sống lấy của người,
Vasettha hãy biết, 

Kẻ ấy là kẻ trộm

Không phải Bà-la-môn. 

Ai sống nghề cung tên, 
Vasettha hãy biết, 

Kẻ ấy là nhà binh, 

Không phải Bà-la-môn. 

Ai sống nghề tế tự, 
Vasettha hãy biết, 

Kẻ ấy là tế quan

Không phải Bà-la-môn. 

Ai sống giữa loài Người
Thọ hưởng làng, quốc độ

Vasettha hãy biết, 

Kẻ ấy là vua chúa, 

Không phải Bà-la-môn. 

Và Ta không có gọi, 
Kẻ ấy Bà-la-môn. 

Chỉ vì do thọ sanh, 

Dầu vị ấy cao sang, 

Dầu vị ấy giàu có

Nhưng còn ham thế lợi. 

Không tham lam thế lợi, 
Không chấp thủ sở hữu

Kẻ ấy Ta mới gọi, 

Chánh danh Bà-la-môn. 

Vị đoạn tận kiết sử
Không ai không sợ hãi

Siêu việt mọi chấp trước

Thoát ly các hệ phược

Kẻ ấy Ta mới gọi, 

Chánh danh Bà-la-môn. 

Cắt dây thừng, dây ách, 
Dây cương, cùng dây trói, 

Quăng đi cây chắn ngang, 

Kẻ ấy Ta mới gọi, 

Bậc sáng suốt, giác ngộ

Chánh danh Bà-la-môn. 

Ai không lỗi, chịu đựng
Nhiếc mắng cùng đánh trói, 

Trang bị với nhẫn lực

Kẻ ấy Ta mới gọi, 

Chánh danh Bà-la-môn. 

Không phẫn nộ, giữ luật, 
giới hạnh không kiêu, 

Nhiếp phục, thân tối hậu

Kẻ ấy Ta mới gọi,

Chánh danh Bà-la-môn. 

Như nước trên lá sen
Hột cải trên đỉnh nhọn, 

Không tham luyến dục vọng

Kẻ ấy Ta mới gọi,

Chánh danh Bà-la-môn. 

Ai biết ngay đời này
Khổ vì ngã đoạn tận, 

Gánh nặng được đặt xuống, 

Xa lìa các hệ phược

Kẻ ấy Ta mới gọi,

Chánh danh Bà-la-môn. 

Tuệ thâm sâu, có trí
Thiện xảo đạo phi đạo, 

Ðích tối thượng đạt được

Kẻ ấy Ta mới gọi,

Chánh danh Bà-la-môn.

Ai không còn liên hệ
Cả tại gia, xuất gia

Không nhà trú, thiểu dục

Kẻ ấy Ta mới gọi,

Chánh danh Bà-la-môn. 

Bỏ gậy đối chúng sanh
Kẻ yếu cùng kẻ mạnh, 

Không giết, không hại ai, 

Kẻ ấy Ta mới gọi,

Chánh danh Bà-la-môn. 

Giữa kẻ thù, không thù, 
Giữa hung bạo, an tịnh

Giữa chấp thủ, không chấp

Kẻ ấy Ta mới gọi,

Chánh danh Bà-la-môn. 

Dối, tham, sân, mạn, phú, 
Ai bỏ rơi được chúng, 

Như hột cải rơi khỏi. 

Ðầu nhọn của mũi kim, 

Kẻ ấy Ta mới gọi,

Chánh danh Bà-la-môn. 

Ai dạy thật nhỏ nhẹ
Nói lên lời chơn thực, 

Không xúc chạm một ai, 

Kẻ ấy Ta mới gọi, 

Chánh danh Bà-la-môn. 

Dài ngắn hay lớn nhỏ, 
Thanh tịnh hay bất tịnh

Ở đời vật dài ngắn, 

Lớn, nhỏ, tịnh, bất tịnh

Không lấy vật không cho, 

Kẻ ấy Ta mới gọi, 

Chánh danh Bà-la-môn. 

Với ai không tham cầu, 
Ðời này và đời sau

Từ bỏ mọi tham cầu, 

Ðoạn rời mọi hệ phược,

Kẻ ấy Ta mới gọi,

Chánh danh Bà-la-môn. 

Ai không có chấp tàng, 
Với trí đoạn nghi hoặc

Ðạt nhập đáy bất tử

Kẻ ấy Ta mới gọi, 

Chánh danh Bà-la-môn. 

Ở đời ai vượt khỏi, 
Mọi buộc ràng thiện ác

Không sầu, không bụi uế, 

Kẻ ấy Ta mới gọi, 

Chánh danh Bà-la-môn. 

Ai không uế, thanh tịnh
Không gợn, sáng như trăng, 

Hỷ, hữu được đoạn trừ, 

Kẻ ấy Ta mới gọi,

Chánh danh Bà-la-môn. 

Ai vượt qua hiểm lộ, 
Ác lộ, luân hồi, si, 

Vượt khỏi, đến bờ kia, 

Thiền tư, không dao động

Ðoạn trừ mọi nghi hoặc

An tịnh, không chấp trước, 

Kẻ ấy Ta mới gọi,

Chánh danh Bà-la-môn. 

Ở đời, bỏ dục vọng
Không nhà, sống xuất gia

Ðoạn trừ dục và hữu, 

Kẻ ấy Ta mới gọi, 

Chanh danh Bà-la-môn. 

Ở đời, bỏ tham ác, 
Không nhà, sống xuất gia

Ðoạn trừ ác và hữu, 

Kẻ ấy Ta mới gọi,

Chánh danh Bà-la-môn. 

Ai từ bỏ nhân ách, 
Vượt qua cả thiên ách, 

Ðoạn trừ mọi ách nạn, 

Thoát ly mọi hệ phược

Kẻ ấy Ta mới gọi,

Chánh danh Bà-la-môn. 

Từ bỏ lạc, bất lạc
Thanh lương, không y trú, 

Chiến thắng mọi thế giới

Bậc anh hùng dũng mãnh

Kẻ ấy Ta mới gọi,

Chánh danh Bà-la-môn. 

Ai biết thật hoàn toàn
Sự sanh diệt chúng sanh

Không tham trước, Thiện Thệ

Giác ngộ, đạt chánh giác

Kẻ ấy Ta mới gọi,

Chánh danh Bà-la-môn. 

Không biết chỗ sở thủ
Thiên, Nhân, Càn-thát-bà, 

Lậu hoặc được đoạn trừ, 

Bậc �ng Cúng, La-Hán, 

Kẻ ấy Ta mới gọi, 

Chánh danh Bà-la-môn. 

Ai không có chấp trước
Ðời trước, sau, đời này, 

Không chấp, không sở hữu

Kẻ ấy Ta mới gọi, 

Chánh danh Bà-la-môn. 

Ngưu vương, bậc Tối thắng
Anh hùng, bậc Ðại sĩ, 

Bậc Chinh phục, Bất động

Tắm sạch, bậc Giác Ngộ

Kẻ ấy Ta mới gọi,

Chánh danh Bà-la-môn. 

Ai biết được đời trước, 
Thấy được thiện, ác thú

Ðạt được sanh diệt đoạn, 

Kẻ ấy Ta mới gọi,

Chánh danh Bà-la-môn. 

Ðiều thế giới cho gọi,
Là "tên" và "gia tộc", 

Chỉ tục danh, thông danh, 

Danh từ khởi nhiều chỗ. 

Ðã lâu đời chấp trước
Tà kiến của kẻ ngu,

Kẻ ngu tự tuyên bố

Bà-la-môn do sanh. 

Không phải do sanh đẻ, 
Ðược gọi Bà-la-môn, 

Không phải do sanh đẻ, 

Gọi phi Bà-la-môn. 

Chính do sự hành động
Ðược gọi Bà-la-môn, 

Chính do sự hành động

Gọi phi Bà-la-môn. 

Hành động làm nông phu, 
Hành động làm công thợ, 

Hành động làm lái buôn, 

Hành động làm nô bộc

Hành động làm ăn trộm
Hành động làm nhà binh. 

Hành động làm tế quan

Hành động làm vua chúa. 

Kẻ trí thấy hành động, 
Như thật là như vậy. 

Thấy rõ lý duyên khởi

Biết rõ nghiệp dị thục.

Do nghiệp, đời luân chuyển
Do nghiệp, người luân hồi

Nghiệp trói buộc chúng sanh

Như trục xe quay bánh. 

Do khổ hạnh, Phạm hạnh
Tiết chếchế ngự

Tác thành Bà-la-môn. 

Bà-la-môn như vậy, 

Mới thật là tối thượng

Ba Vệ-đà thành tựu
An tịnh, tái sanh đoạn, 

Vesettha nên biết, 

Kẻ ấy được Phạm thiên

Ðược Thiên chủ Sakka, 

Biết đến thật tường tận. 

Khi được nghe nói vậy, hai thanh niên Bà-la-môn Vasettha và Bharadvaja bạch Thế Tôn:

-- Thật vi diệu thay, tôn giả Gotama ! Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama ! Như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho người bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc; cũng vậy, Chánh pháp đã được Thế Tôn dùng nhiều phương tiện trình bày, giải thích. Thưa Tôn giả Gotama, nay con xin quy y Tôn giả Gotama, quy y Phápquy y chúng Tỷ-kheo. Mong Tôn giả Gotama nhận chúng con làm cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, chúng con trọn đời quy ngưỡng

Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 43164)
Đây là một bản kinh Phật đặc sắc, nêu bật lên ý nghĩa nhân quả bằng những truyện tích nhân duyên rất sống động, được thuật lại với nhiều chi tiết thú vị.
(Xem: 43952)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 43036)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366, Đoàn Trung Còn và Nguyễn Minh Tiến dịch
(Xem: 49027)
Có một lúc, đức Phật ở trong núi Kỳ-xà-quật gần thành Vương Xá, cùng với các vị đại tỳ-kheo mười hai ngàn người, đại Bồ Tát là tám mươi ngàn người.
(Xem: 39856)
Bấy giờ, đức Thế Tôn ở giữa đại chúng, vì đại chúngthuyết giảng giáo pháp nhiệm mầu, trừ sạch bốn điên đảo, khiến cho được rõ biết các pháp lành...
(Xem: 53800)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, lúc mới Chuyển pháp luân độ ông A-nhã Kiều-trần-như, đến khi thuyết pháp lần cuối cùng độ ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 36832)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng. Nếu thấy các tướng thật chẳng phải tướng tức là thấy Như Lai.
(Xem: 40827)
Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: "Về phương đông, cách đây vô số cõi Phật nhiều như số cát sông Hằng, có một thế giới tên là Tịnh Lưu Ly.
(Xem: 49743)
Lúc ấy, Bồ Tát Vô Tận Ý từ chỗ ngồi đứng dậy, vén tay áo bên vai mặt, quỳ xuống chắp tay cung kính bạch Phật rằng...
(Xem: 47331)
Thế Tôn thành đạo dĩ, tác thị tư duy: “Ly dục tịch tĩnh, thị tối vi thắng.” Trụ đại thiền định, hàng chư ma đạo. Ư Lộc dã uyển trung...
(Xem: 27745)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 25859)
Quyển Kinh Lời Vàng này nguyên danh là "Phật Giáo Thánh Kinh" do nữ Phật tử Dương Tú Hạc biên trước bằng Hán Văn (người Trung Hoa).
(Xem: 29897)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27180)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 24765)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 21318)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23229)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 23884)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22811)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 29580)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20644)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 34167)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 24683)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30047)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20226)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20407)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15145)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 23900)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
(Xem: 34080)
Tiểu Bộ Kinh - Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
(Xem: 24005)
Quy mạng Lô Xá Na, Mười phương Kim Cương Phật. Ðảnh lễ đức Di Lạc, Sẽ hạ sanh thành Phật. Nay tụng ba tựu giới, Bồ Tát đều cùng nghe.
(Xem: 29199)
Tôi nghe như vầy: Một thời Thế-tôn, châu du giáo hóa các nước đến thành Quảng-nghiêm, ở nghỉ dưới cây Nhạc-âm, cùng với tám ngàn vị đại tỳ-kheo...
(Xem: 60165)
Bồ TátVô Tận Ý Khi bấy giờ chăm chỉ đứng lên Bèn trịch vai hữu một bên Chắp tay cung kính hướng lên Phật đài
(Xem: 27623)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 68750)
Chúng sanh đây có bấy nhiêu Lắng tai nghe lấy những điều dạy răn Các ngươi trước lòng trần tục lắm Nên kiếp nầy chìm đắm sông mê
(Xem: 24538)
Một thuở nọ Thế Tôn an trụ Xá Vệ thành Kỳ Thụ viên trung Mục Liên mới đặng lục thông Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm luân.
(Xem: 26371)
Lăng-già (Lanka) là tên núi, núi này do sản xuất châu Lăng-già nên lấy tên châu mà gọi tên núi. Núi nằm tại biển Nam là chỗ ở của Dạ-xoa.
(Xem: 20825)
Lư hương xạ nhiệt, Pháp-giới mông huân. Chư Phật hải hội tất diêu văn, Tùy xứ kiết tường vân
(Xem: 20066)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phảng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 27556)
Làm người Phật tử ở đời Đêm ngày tụng niệm những lời dạy khuyên Tám điều giác ngộ kinh truyền Ghi lòng tạc dạ tinh chuyên tu hành
(Xem: 46443)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 25582)
Phụng dịch theo bản đời Đường của Ngài Thiệt Xoa Nan Đà. Tham khảo các bản dịch đời Ngụy, Tống và bản dịch Anh Ngữ của Suzuki. - Dịch Giả: Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 29271)
VIMALAKĪRTINIRDEŚA - SŪTRA - Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết - Đường Huyền Trang dịch - bản dịch Việt: Tuệ Sỹ
(Xem: 189003)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi tam-bảo
(Xem: 27434)
Thắng Man Phu nhân điển hình cho phụ nữ thực hành Bồ tát đạo bằng cung cách trang nhã, từ ái, khiêm cung. Môi trường thực hành bao gồm từ giới hạn thân thuộc...
(Xem: 31137)
Kinh Pháp Cú (Kinh Lời Vàng), The Path of Truth - Việt dịch: Hòa Thượng Thích Minh Châu - Họa sĩ: Mr. P. Wickramanayaka (vẽ theo bản tiếng Anh mà HT Thích Minh Châu dịch) - Vi tính: Tâm Tịnh
(Xem: 33173)
Tích truyện Pháp Cú - Thiền viện Viên Chiếu - Nguyên tác: "Buddhist Legends", Eugène Watson Burlingame
(Xem: 24034)
Sau 45 năm thuyết pháp, những lời giảng daỵ của Đức Phật không những không bị quên lãng, thất lạc mà còn được lưu giữ, truyền bá mãi đến ngày nay...
(Xem: 25630)
Ta Bà là chốn tạm ở thôi Cửa không mau phải hồi đầu lại Hai sáu nguyện vương tiêu tai chướng Ba ngàn hoá Phật chứng lòng thành
(Xem: 26708)
Cuộc đối thoại đầy đạo vị hứng thú dĩ nhiên được truyền tụng khắp nơi trong giới Phật giáo cũng như ngoài nhân gian. Về sau, vào thế kỷ đầu sau Tây lịch, sợ để khẩu truyền lâu ngày
(Xem: 36670)
Ở phương Ðông cách đây hơn mười căn dà sa cõi Phậtmột thế giới tên là Tịnh Lưu Ly. Ðức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai
(Xem: 27351)
Lúc Đức Phật Thích-ca chứng đắc, Chuyển bánh xe chánh pháp độ sanh, Kiều-trần-như được duyên lành, Năm anh em họ viên thành lý chân,
(Xem: 30374)
Phật Thùy Ban Niết Bàn Lược Thuyết Giáo Giới Kinh (Kinh Di Giáo) - Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0389 - Cưu Ma La Thập dịch Hán; HT. Thích Trí Quang dịch Việt
(Xem: 37325)
Một thời Ðức Phật ở nước Xá Vệ, trong vườn Cấp Cô Ðộc, cây của thái tử Kỳ Ðà, cùng với các đại Tỳ Kheo Tăng... Thích Minh Định dịch
(Xem: 23903)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Kỳ Thọ Cấp Cô Độc gần thành Xá Vệ, với đại chúng khất sĩ gồm một ngàn hai trăm năm mươi vị. Hôm ấy vào giờ khất thực, Bụt mặc áo và ôm bát đi vào thành Xá Vệ.
(Xem: 36978)
Khuyến phát Bồ Đề Tâm văn; Âm Hán Việt: Cổ Hàng Phạm Thiên Tự Sa môn Thật Hiền soạn; Dịch: Sa môn Thật Hiền chùa Phạm Thiên Cổ Hàng soạn
(Xem: 27615)
Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm Kinh - Năm trăm Danh Hiệu Phật và Bồ Tát Quán Thế Âm
(Xem: 28340)
Công Phu Khuya
(Xem: 24164)
Nói một cách vắn tắt, sự xuất hiện của Duy-ma-cật là xu hướng khẳng định vai trò tích cực của chúng đệ tử tại gia trong giáo pháp của Phật, về các mặt hành đạo cũng như hóa đạo.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant