Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

g. Lìa các trộm cướp

13 Tháng Hai 201100:00(Xem: 10685)
g. Lìa các trộm cướp

KINH LỜI VÀNG 
Tác giả: Dương Tú Hạc
Dịch giả: HT Thích Trí Nghiêm
 

PHẦN II 

NGÔN HÀNH 

--- o0o --- 

Chương II

TỰ LỢI 

G. LÌA CÁC TRỘM CƯỚP

Đệ tử phải xa lìa các điều trộm cướp, những đồ vật giúp sống nên vừa đủ; vật của người ta chẳng cho thời chẳng nên lấy.

Kinh Hoa Nghiêm

Trộm cướp có 10 tội: 

Người chủ có vật thường giận 

Thường bị người nghi ngờ 

Không lúc nào chẳng tính mưu gian 

Phường ác nhơn đến làm bạn, người hiền tránh xa 

Phá hủy tướng lành nơi thân 

Bị tội với Quan 

Của cải bị Quan tịch thu 

Gây nghiệp nhơn bần cùng 

Chết đọa địa ngục 

Đời sau được làm người khổ mạt kiếp, khi làm được của bị người xúm dùng chung; hoặc bị giặc lấy hay lửa cháy tiêu. Hoặc là đứa con bất hiếu phá hủy tan tành. 

Luận Trí Độ

Chẳng ăn trộm của cải của người ta là giàu to. Vì chẳng bị quan vua tịch thu, nước lửa chảy trôi, hay giặc trộm cướp lấy, không có kẻ oan gia, không có ác tử mà được nhiều người ưa mến. Đi đến đâu cũng không khó, vì đã dứt hẳn những điều lo sợ.

Kinh Hải Long Vương

Nếu gặp thấy vật rơi nơi đường xá, hoặc vàng bạc hay những của báu; lượm rồi xướng rằng: "vật này là của ai?" Nếu có người nói: "vật ấy là của tôi", thì phải gạn hỏi hình tướng, nếu đúng sự thật nên trả lại họ. Nếu không người đến nhận thời cứ sau mỗi bảy ngày là đem vật ấy ra mà xướng như vậy nữa. Và sau cũng không có người chủ nhận thì đem gởi cho vua, quan, quận, huyện hay các cơ quan hữu trách; những cơ quan ấy cũng chẳng thấy chủ đến nhận lãnh thì mới đem ủng hộ cho Phật pháp.

Kinh Chánh Pháp Niệm Xứ

Nếu lượm được những vật thuộc loại khăn áo, phải xướng lên cho ngươi hay đến nhận, bằng không người nhận thời treo chỗ cao, cho người ta dễ thấy. Nếu có người nói: "vật này của tôi", thì nên hỏi họ: "ngươi làm mất vật này ở chỗ nào?" Họ nói đúng sự thật thì trả lại cho họ, bằng chẳng đúng, phải giữ lại sau thời gian ba tháng, khi lượm được nơi vườn tháp thì đem cúng cho tháp dùng, mà lượm được vườn Tăng thì đem cúng cho tứ phương Tăng dùng.

Nếu như lượm được vật quí giá như vàng bạc hay chuỗi anh lạc thời không nên vội xướng rõ, người lượm được phải coi kỹ hình dáng hoặc số lượng của vật rồi mới đưa ra, có người nhận, phải hỏi cho đúng sự thật, rồi trước đông người mà trả lại họ, chớ không nên ở chỗ kín mà cho lại. 

Luật Tăng Kỳ

Sống không biết hổ, như chim ăn dơ mặt mày chịu nhục, gọi là sống dơ. Liêm sỉ tuy khổ, giữ nghĩa thanh bạch, tránh nhục chẳng dối, gọi là sống sạch. 

Kinh Pháp Cú

Thà nên giữ Đạo, nghèo hèn mà chết, chẳng nên vô Đạo, giàu sang mà sống. 

Kinh Lục Độ Tập

Phật dạy: Các Tỳ kheo! Đa dục là khổ, sống chết mệt nhọc, bởi tham dục sanh: ít dục vô vi mới giác ngộ thân tâm tự tại

Kinh Bát Đại Nhơn Giác

Phật dạy: Hỡi các Tỳ kheo! Phải biết, những người đa dục, vì cầu lợi nhiều, khổ não cũng nhiều; những người thiểu dục, không cầu không dục, không có khổ não. Cho nên ai muốn lìa khổ, cần phải tu tập hạnh thiểu dục. Huống chi hạnh thiểu dục có thể sanh các công đức. Những người tu hạnh thiểu dục thời không đua dọc chìu theo ý người để cầu cạnh, nhất là chẳng bị các căn lôi kéo. Người tu thiểu dục, tâm địa thản nhiên, không có lo sợ, gặp việc cô thừa, thường chẳng thiếu thốn. Hễ tu thiểu dục là có Niết bàn

Kinh Di Giáo

Người tham, chửa đẻ nhiều, được mấy cũng chẳng vừa. Tâm vô minh điên đảo, thường mưu xâm lấn người, đời hiện nhiều oán ghét, chết rồi đọa ác đạo. Cho nên người trí, phải tu trí túc

Kinh Ni Kiền Tử

Nếu người lòng tham không biết nhàm đủ, chỉ biết cầu cho nhiều, tội ác càng tăng thêm. Bồ tát chẳng thế, thường nghĩ tri túc, an phận nghèo mà giữ Đạo giác ngộ. Duy huệ là sự nghiệp

Kinh Bát Nhơn Giác

Người xuất gia có 4 chứng bệnh cho nên chẳng được bốn đạo quả Sa môn: 4 chứng bệnh là gì? Là bốn thứ ác dục

Tham ăn uống 

Tham áo mặc 

Tham đồ ngủ 

Tham của đời 

Gọi là bốn thứ ác dục, là bệnh của kẻ xuất gia, có bốn món thuốc hay, có thể trị lành những thứ bịnh ấy là: áo mặc bằng giẻ rách, có thể trị được bệnh ác dục của Tỳ kheo về áo mặc; đi khất thực, có thể trị được bệnh ác dục về tham ăn; ngủ dưới gốc cây, có thể trị được bệnh ác dục về đồ ngủ; thân tâm vắng lặng, có thể trị được bệnh ác dục về của đời của Tỳ kheo.

Do bốn vị thuốc này chữa được bốn chứng bệnh kia, nên gọi là Thánh hạnh. Như thế mới gọi là tu thiểu dục tri túc.

Người thiểu dục, chẳng tìm cầu, chẳng tham lấy. Người tri túc, khi được ít, tâm vẫn thản nhiên, không chút hối hận

Kinh Niết Bàn

Hỡi các Tỳ kheo! Nếu muốn giải thoát các điều khổ não, nên quán tri túc. Pháp tri túc, tức là chỗ giàu vui yên ổn vậy. Người tri túc, tuy nằm trên đất, vẫn được an vui; người bất tri túc, dù ở thiên đường, cũng chẳng vừa ý.

Người bất tri túc, tuy giàu mà nghèo; người tri túc tuy nghèo mà giàu. Người bất tri túc, thường bị năm dục lôi cuốn, làm cho người tri túc động lòng thương xót, ấy là tri túc

Kinh Di Giáo

Trong lúc tìm cầu giàu sang, rất khổ, đã được rồi giữ cũng khổ, về sau bị mất lo rầu lại càng khổ hơn. Xét trong ba thời đều không có vui. 

Kinh Bách Duyên

Không luận kẻ sang người hèn, kẻ nghèo người giàu, lớn nhỏ trai gái, đều chung lo tiền của, trăm nghĩ ngàn lo, sai khiến lương tâm không lúc yên nghỉ. Có ruộng lo ruộng, có nhà lo nhà; có trâu ngựa lục súc, tôi tớ tiền của, áo cơm đồ vật, thảy đều lo cả.

Càng lo nghĩ lại càng sầu khổ. Hoặc có khi bị tai nạn phi thường như nước lửa trộm cướp, cháy, trôi, dựt lấy đi mất, lại càng lo khổ hơn nữa, rồi lại bo bo không lúc nào giải thoát; giận hờn kết chặt nơi lòng, phiền não không thể bỏ.

Nhưng khi thân mạng chết, thì bỏ lại cho đời chỉ mô? mình mình đi, chẳng đem thứ gì theo được! Sang trọng giàu mạnh, không ai không có các thứ lo khổ này. 

Kinh Vô Lượng Thọ

Ông Cấp Cô trưởng giả hỏi Phật rằng, thưa Thế Tôn: Thế gian hành nghiệp sanh sống có bao nhiêu thứ? Phật đáp: kể có 10 thứ: 

Phi pháp vô đạocầu tài, dù được, không thể tự an dưỡng, không thể an dưỡng cha mẹ, vợ con, tôi tớ và cúng dường Sa môn

Phi pháp vô đạocầu tài, được tài, tự an dưỡng, an dưỡng cha mẹ, vợ con, tôi tớ mà chẳng cúng dường Sa môn 

Phi pháp vô đạo cầu tài, được tài, tự an dưỡng, an dưỡng cha mẹ, vợ con, tôi tớ và cúng dường Sa môn

Đúng pháp và phi pháp cầu tài, được tài, chẳng tự an dưỡng, chẳng an dưỡng cha mẹ, vợ con, tôi tớ cũng chẳng cúng dường Sa môn 

Đúng pháp và phi pháp cầu tài, tự an dưỡng, an dưỡng cha mẹ, vợ con, tôi tớ mà chẳng cúng dường Sa môn 

Đúng pháp và phi pháp cầu tài, được tài, có thể tự an dưỡng, an dưỡng cha mẹ, vợ con, tôi tớ và cúng dường Sa môn 

Đúng pháp cầu tài, chẳng tự an dưỡng, chẳng an dưỡng cha mẹ, vợ con, tôi tớ và cũng chẳng cúng dường Sa môn 

Đúng pháp cầu tài, tự an dưỡng, an dưỡng cha mẹ, vơ con tôi tớ mà chẳng cúng dường Sa môn 

Đúng pháp cầu tài, tự an dưỡng, an dưỡng cha mẹ, vợ con, tôi tớ và cúng dường Sa môn 

Đúng pháp cầu tài, tự an dưỡng, được an dưỡng cha mẹ, vợ con tôi tớ và cúng dường Sa môn. Đối với của cải không đắm nhiễm, không bị ràng buộc. Thấy kẻ bị tai họa bố thí chẳng tiếc lẫn. 

Trong 10 hạng hành nhơn, hạng sau cùng là cao thượng hơn hết vậy. 

Kinh Trung A Hàm

Phật dạy: cầu tài có 6 món phi đạo

Đánh bạc cầu tài lợi là phi đạo 

Phi thời cầu tài lợi là phi đạo 

Uống rượu buông lung cầu tài lợi là phi đạo 

Gần gũi với bạn ác mà cầu tài lợi là phi đạo 

Vì vui đàn hát cầu tài lợi là phi đạo 

Biếng nhác cầu tài lợi là phi đạo 

Kinh Trung A Hàm

Trong việc bảo hộ tài sản cho người sẽ bị nguy hiểm bởi 4 điều. Bốn điều nguy hiểm đó là: 

Vua chúa nước ngoài 

Giặc cướp 

Nạn lửa cháy 

Nạn nước trôi 

 Kinh Tăng Nhứt A Hàm (văn Ba lị)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 43167)
Đây là một bản kinh Phật đặc sắc, nêu bật lên ý nghĩa nhân quả bằng những truyện tích nhân duyên rất sống động, được thuật lại với nhiều chi tiết thú vị.
(Xem: 43955)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 43040)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366, Đoàn Trung Còn và Nguyễn Minh Tiến dịch
(Xem: 49029)
Có một lúc, đức Phật ở trong núi Kỳ-xà-quật gần thành Vương Xá, cùng với các vị đại tỳ-kheo mười hai ngàn người, đại Bồ Tát là tám mươi ngàn người.
(Xem: 39861)
Bấy giờ, đức Thế Tôn ở giữa đại chúng, vì đại chúngthuyết giảng giáo pháp nhiệm mầu, trừ sạch bốn điên đảo, khiến cho được rõ biết các pháp lành...
(Xem: 53801)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, lúc mới Chuyển pháp luân độ ông A-nhã Kiều-trần-như, đến khi thuyết pháp lần cuối cùng độ ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 36833)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng. Nếu thấy các tướng thật chẳng phải tướng tức là thấy Như Lai.
(Xem: 40828)
Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: "Về phương đông, cách đây vô số cõi Phật nhiều như số cát sông Hằng, có một thế giới tên là Tịnh Lưu Ly.
(Xem: 49743)
Lúc ấy, Bồ Tát Vô Tận Ý từ chỗ ngồi đứng dậy, vén tay áo bên vai mặt, quỳ xuống chắp tay cung kính bạch Phật rằng...
(Xem: 47331)
Thế Tôn thành đạo dĩ, tác thị tư duy: “Ly dục tịch tĩnh, thị tối vi thắng.” Trụ đại thiền định, hàng chư ma đạo. Ư Lộc dã uyển trung...
(Xem: 27746)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 25860)
Quyển Kinh Lời Vàng này nguyên danh là "Phật Giáo Thánh Kinh" do nữ Phật tử Dương Tú Hạc biên trước bằng Hán Văn (người Trung Hoa).
(Xem: 29897)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27180)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 24766)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 21321)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23231)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 23887)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22816)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 29583)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20646)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 34168)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 24685)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30047)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20227)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20408)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15145)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 23903)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
(Xem: 34082)
Tiểu Bộ Kinh - Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
(Xem: 24006)
Quy mạng Lô Xá Na, Mười phương Kim Cương Phật. Ðảnh lễ đức Di Lạc, Sẽ hạ sanh thành Phật. Nay tụng ba tựu giới, Bồ Tát đều cùng nghe.
(Xem: 29200)
Tôi nghe như vầy: Một thời Thế-tôn, châu du giáo hóa các nước đến thành Quảng-nghiêm, ở nghỉ dưới cây Nhạc-âm, cùng với tám ngàn vị đại tỳ-kheo...
(Xem: 60166)
Bồ TátVô Tận Ý Khi bấy giờ chăm chỉ đứng lên Bèn trịch vai hữu một bên Chắp tay cung kính hướng lên Phật đài
(Xem: 27625)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 68751)
Chúng sanh đây có bấy nhiêu Lắng tai nghe lấy những điều dạy răn Các ngươi trước lòng trần tục lắm Nên kiếp nầy chìm đắm sông mê
(Xem: 24540)
Một thuở nọ Thế Tôn an trụ Xá Vệ thành Kỳ Thụ viên trung Mục Liên mới đặng lục thông Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm luân.
(Xem: 26376)
Lăng-già (Lanka) là tên núi, núi này do sản xuất châu Lăng-già nên lấy tên châu mà gọi tên núi. Núi nằm tại biển Nam là chỗ ở của Dạ-xoa.
(Xem: 20826)
Lư hương xạ nhiệt, Pháp-giới mông huân. Chư Phật hải hội tất diêu văn, Tùy xứ kiết tường vân
(Xem: 20067)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phảng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 27556)
Làm người Phật tử ở đời Đêm ngày tụng niệm những lời dạy khuyên Tám điều giác ngộ kinh truyền Ghi lòng tạc dạ tinh chuyên tu hành
(Xem: 46445)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 25585)
Phụng dịch theo bản đời Đường của Ngài Thiệt Xoa Nan Đà. Tham khảo các bản dịch đời Ngụy, Tống và bản dịch Anh Ngữ của Suzuki. - Dịch Giả: Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 29273)
VIMALAKĪRTINIRDEŚA - SŪTRA - Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết - Đường Huyền Trang dịch - bản dịch Việt: Tuệ Sỹ
(Xem: 189012)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi tam-bảo
(Xem: 27435)
Thắng Man Phu nhân điển hình cho phụ nữ thực hành Bồ tát đạo bằng cung cách trang nhã, từ ái, khiêm cung. Môi trường thực hành bao gồm từ giới hạn thân thuộc...
(Xem: 31141)
Kinh Pháp Cú (Kinh Lời Vàng), The Path of Truth - Việt dịch: Hòa Thượng Thích Minh Châu - Họa sĩ: Mr. P. Wickramanayaka (vẽ theo bản tiếng Anh mà HT Thích Minh Châu dịch) - Vi tính: Tâm Tịnh
(Xem: 33176)
Tích truyện Pháp Cú - Thiền viện Viên Chiếu - Nguyên tác: "Buddhist Legends", Eugène Watson Burlingame
(Xem: 24035)
Sau 45 năm thuyết pháp, những lời giảng daỵ của Đức Phật không những không bị quên lãng, thất lạc mà còn được lưu giữ, truyền bá mãi đến ngày nay...
(Xem: 25632)
Ta Bà là chốn tạm ở thôi Cửa không mau phải hồi đầu lại Hai sáu nguyện vương tiêu tai chướng Ba ngàn hoá Phật chứng lòng thành
(Xem: 26709)
Cuộc đối thoại đầy đạo vị hứng thú dĩ nhiên được truyền tụng khắp nơi trong giới Phật giáo cũng như ngoài nhân gian. Về sau, vào thế kỷ đầu sau Tây lịch, sợ để khẩu truyền lâu ngày
(Xem: 36672)
Ở phương Ðông cách đây hơn mười căn dà sa cõi Phậtmột thế giới tên là Tịnh Lưu Ly. Ðức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai
(Xem: 27352)
Lúc Đức Phật Thích-ca chứng đắc, Chuyển bánh xe chánh pháp độ sanh, Kiều-trần-như được duyên lành, Năm anh em họ viên thành lý chân,
(Xem: 30374)
Phật Thùy Ban Niết Bàn Lược Thuyết Giáo Giới Kinh (Kinh Di Giáo) - Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0389 - Cưu Ma La Thập dịch Hán; HT. Thích Trí Quang dịch Việt
(Xem: 37325)
Một thời Ðức Phật ở nước Xá Vệ, trong vườn Cấp Cô Ðộc, cây của thái tử Kỳ Ðà, cùng với các đại Tỳ Kheo Tăng... Thích Minh Định dịch
(Xem: 23908)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Kỳ Thọ Cấp Cô Độc gần thành Xá Vệ, với đại chúng khất sĩ gồm một ngàn hai trăm năm mươi vị. Hôm ấy vào giờ khất thực, Bụt mặc áo và ôm bát đi vào thành Xá Vệ.
(Xem: 36982)
Khuyến phát Bồ Đề Tâm văn; Âm Hán Việt: Cổ Hàng Phạm Thiên Tự Sa môn Thật Hiền soạn; Dịch: Sa môn Thật Hiền chùa Phạm Thiên Cổ Hàng soạn
(Xem: 27622)
Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm Kinh - Năm trăm Danh Hiệu Phật và Bồ Tát Quán Thế Âm
(Xem: 28341)
Công Phu Khuya
(Xem: 24165)
Nói một cách vắn tắt, sự xuất hiện của Duy-ma-cật là xu hướng khẳng định vai trò tích cực của chúng đệ tử tại gia trong giáo pháp của Phật, về các mặt hành đạo cũng như hóa đạo.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant