Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

31. Vua Liên Hoa nguyện hóa làm cá

03 Tháng Ba 201100:00(Xem: 10497)
31. Vua Liên Hoa nguyện hóa làm cá

MỘT TRĂM BÀI KINH PHẬT
Đoàn Trung Còn - Nguyễn Minh Tiến dịch và chú giải

PHẨM THỨ TƯ: BỒ-TÁT RA ĐỜI

VUA LIÊN HOA NGUYỆN HÓA LÀM CÁ

Lúc ấy, Phật ở gần thành Xá-vệ, trong vườn Kỳ thọ Cấp Cô Độc. Bấy giờ vào mùa thu, có nhiều loại quả chín, Phật cùng với chư tỳ-kheo đi giáo hóa trong các xóm làng, chỉ ăn toàn các thứ quả. Chư vị tỳ-kheo thảy đều tiêu hóa khó khăn, sinh ra lắm chứng bệnh khổ, chẳng thể ngồi thiền, niệm kinh hay tu học gì được cả.

Bấy giờ, ngài A-nan mới lễ Phật mà hỏi rằng: “Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên phước báo gì mà Phật ăn uống hết thảy các món đều tiêu hóa tốt, chẳng sanh bệnh khổ trong thân bao giờ, nên dung mạo lúc nào cũng tươi nhuận, đẹp đẽ?”

Phật liền bảo A-nan rằng: “A-nan! Ta nhớ lại những kiếp quá khứ, tu hạnh từ bi, thường dùng các loại thuốc men, thang dược mà bố thí cho chúng sanh. Nhờ nhân duyên ấy mà được quả báo không có bệnh, lại khi ăn uống bất cứ món chi đều tiêu hóa tốt, chẳng sinh bệnh khổ.”

Khi ấy, ngài A-nan lại thưa hỏi tiếp: “Bạch Thế Tôn! Chẳng biết hạnh tu của Phật ngày trước đó là như thế nào? Xin đức Thế Tôn từ bi vì chúng con mà thuyết giảng cho nghe.”

Phật liền bảo chư tỳ-kheo: “Các ngươi nên chú ý lắng nghe, ta sẽ vì các ngươi mà phân biệt giảng nói.

“Này chư tỳ-kheo! Về thuở quá khứ, nước Ba-la-nại có vị vua tên là Liên Hoa, trị nước theo chánh pháp, nhân dân an ổn, thịnh vượng, không có nạn đao binh, chinh chiến. Trong cõi nước của ngài, các loại trâu bò, voi ngựa, gia súc, thảy đều đông đúc. Xứ ấy lại có lắm thứ cây quả ngon ngọt, tươi tốt quanh năm. Khi ấy, nhân dân trong xứ do tham ăn quả cây quá nhiều, không thể tiêu hóa được, sanh ra đủ chứng bệnh khổ, da dẻ vàng vọt, mới kéo nhau đến chỗ vua mà xin thuốc trị. Khi ấy, đức vua Liên Hoa thấy dân bệnh khổ thì sinh lòng đại bi, thương xót, mới triệu tập các vị thầy thuốc lại để chế thuốc mà phân phát cho dân. Nhưng bệnh mỗi ngày một nhiều, việc trị liệu chẳng thể dứt được.

Vua Liên Hoa khi ấy mới gọi các vị thầy thuốc lại, khiển trách rằng: “Nay các ngươi lo lắng những việc chi khác mà không trị bệnh cho nhân dân, để mọi người phải đến chỗ ta mà cầu khẩn?” Các vị thầy thuốc mới tâu lên rằng: “Tâu đại vương! Thuốc men hiện nay không có, nên chẳng thể trị bệnh cho dân. Ngay như trong bọn chúng tôi đây, còn phải chịu bệnh khổ, không có thuốc mà tự trị, huống gì trị bệnh cho người khác?”

Vua nghe như vậy lấy làm thất vọng, lòng thương dân vô hạn, mới hỏi các vị thầy thuốc rằng: “Nay các ngươi bảo thiếu thuốc, vậy là thiếu món chi?” Các thầy thuốc tâu rằng: “Cần có máu thịt của loài cá đỏ để làm thuốc. Mỗi người chúng tôi lâu nay đều ra công tìm kiếm, mà đến nay vẫn chưa có được. Chính vì vậy mà bệnh mỗi ngày một nhiều thêm, đã lắm người phải mất mạng rồi.”

Khi ấy vua Liên Hoa tự nghĩ rằng: “Loài cá đỏ này, câu lưới đều chẳng bắt được. Nay ta nên phát nguyện sanh ra làm thân cá ấy mà cứu độ bệnh khổ cho nhân dân.”

Nghĩ như vậy rồi, liền triệu hết các vị đại thần và thái tử đến, nói rằng: “Nay ta đem việc nước mà giao phó lại cho tất cả các ngươi, cùng nhau lo liệu. Phải khéo biết chăm lo cho dân, đừng làm việc chi sai trái.”

Nghe vua nói lời ấy, thái tử và các vị đại thần thảy đều kinh hãi, buồn thảm sầu khóc nói chẳng nên lời. Hồi lâu, mới có một vị đại thần tâu lên rằng: “Đại thần chúng tôi cùng với thái tử chẳng biết đã làm gì nên tội mà nay đại vương nói ra lời oán hận dường ấy?”

Vua Liên Hoa đáp rằng: “Ta chẳng thấy tất cả các ngươi có lỗi chi cả. Chỉ có điều là ngày nay trong nước nhân dân bệnh khổ, nhiều người đã phải mạng vong, cần có máu thịt của loài cá đỏ để trị liệu. Ý ta muốn bỏ thân mạng này để nguyện hóa sanh làm loài cá đỏ mà trị bệnh khổ cho nhân dân trong nước. Vì thế nên mới cho gọi thái tử với tất cả các ngươi đến đây mà giao phó việc nước.”

Bấy giờ, nghe lời ấy rồi, thái tử với các quan đại thần đều cầm lòng không được, ngửa mặt lên trời mà kêu khóc bi thảm, ôm chân vua khóc lóc nói rằng: “Hết thảy chúng tôi đây đều nương cậy vào lòng từ của đại vương che chở. Nhân dân an lạc, thịnh vượng lâu nay cũng nhờ ân đức đại vương. Cớ sao chỉ trong phút chốc, lại muốn bỏ mặc chúng tôi mà ra đi cho đành?”

Vua đáp rằng: “Việc ta làm ngày nay, cũng là vì tất cả nhân dân đó thôi. Sao các ngươi cố chấp không chịu hiểu cho?” Bấy giờ, thái tử và các vị đại thần hết lời can ngăn, mà vua vẫn cương quyết không đổi ý.

Khi ấy, vua sắp sửa hương hoa lễ vật, lên lầu cao vọng lễ khắp bốn hướng, phát lời nguyện lớn rằng: “Tôi nay xả bỏ thân mạng này, nguyện được sanh vào dòng sông ở xứ Ba-la-nại, làm loài cá đỏ lớn. Người nào ăn thịt tôi thì đều trừ hết được các chứng bệnh khổ.” Phát nguyện xong rồi, liền tự gieo mình từ lầu cao xuống mà bỏ mạng. Quả nhiên, vua hóa sanh nơi dòng sông làm loài cá đỏ rất lớn.

Bấy giờ, nhân dân nghe nói nơi sông ấy có loài cá đỏ lớn, liền rủ nhau mang lưới, mang câu đi tìm đánh bắt. Ăn thịt cá ấy rồi, các thứ bệnh khổ liền được trừ hết. Còn loài cá ấy, cứ chết đi rồi thì lại cũng hóa sanh trở lại nơi sông ấy để cho người ta đánh bắt. Cứ như vậy trong 12 năm, bố thí thân mạng cho chúng sanh mà không hề có chút mảy may hối hận. Qua 12 năm rồi, khi chết đi mới sinh lên cảnh trời Đao-lỵ.”

Phật lại bảo A-nan rằng: “Vua Liên Hoa thuở ấy, chính là ta ngày nay. Do nhân duyên xả bỏ thân mạng cứu độ chúng sanh, nên ngày nay được phước báo không chịu bệnh khổ, cho đến thành được quả Phật Bồ-đề mà cứu độ cho vô số chúng sanh.”

Các vị tỳ-kheo nghe Phật thuyết nhân duyên này xong thảy đều vui mừng tin nhận.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 43187)
Đây là một bản kinh Phật đặc sắc, nêu bật lên ý nghĩa nhân quả bằng những truyện tích nhân duyên rất sống động, được thuật lại với nhiều chi tiết thú vị.
(Xem: 44007)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 43070)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366, Đoàn Trung Còn và Nguyễn Minh Tiến dịch
(Xem: 49049)
Có một lúc, đức Phật ở trong núi Kỳ-xà-quật gần thành Vương Xá, cùng với các vị đại tỳ-kheo mười hai ngàn người, đại Bồ Tát là tám mươi ngàn người.
(Xem: 39895)
Bấy giờ, đức Thế Tôn ở giữa đại chúng, vì đại chúngthuyết giảng giáo pháp nhiệm mầu, trừ sạch bốn điên đảo, khiến cho được rõ biết các pháp lành...
(Xem: 53829)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, lúc mới Chuyển pháp luân độ ông A-nhã Kiều-trần-như, đến khi thuyết pháp lần cuối cùng độ ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 36852)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng. Nếu thấy các tướng thật chẳng phải tướng tức là thấy Như Lai.
(Xem: 40848)
Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: "Về phương đông, cách đây vô số cõi Phật nhiều như số cát sông Hằng, có một thế giới tên là Tịnh Lưu Ly.
(Xem: 49767)
Lúc ấy, Bồ Tát Vô Tận Ý từ chỗ ngồi đứng dậy, vén tay áo bên vai mặt, quỳ xuống chắp tay cung kính bạch Phật rằng...
(Xem: 47362)
Thế Tôn thành đạo dĩ, tác thị tư duy: “Ly dục tịch tĩnh, thị tối vi thắng.” Trụ đại thiền định, hàng chư ma đạo. Ư Lộc dã uyển trung...
(Xem: 27791)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 25886)
Quyển Kinh Lời Vàng này nguyên danh là "Phật Giáo Thánh Kinh" do nữ Phật tử Dương Tú Hạc biên trước bằng Hán Văn (người Trung Hoa).
(Xem: 29912)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27205)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 24795)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 21380)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23251)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 23918)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22845)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 29620)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20656)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 34205)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 24703)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30056)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20247)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20437)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15165)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 23932)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
(Xem: 34097)
Tiểu Bộ Kinh - Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
(Xem: 24037)
Quy mạng Lô Xá Na, Mười phương Kim Cương Phật. Ðảnh lễ đức Di Lạc, Sẽ hạ sanh thành Phật. Nay tụng ba tựu giới, Bồ Tát đều cùng nghe.
(Xem: 29239)
Tôi nghe như vầy: Một thời Thế-tôn, châu du giáo hóa các nước đến thành Quảng-nghiêm, ở nghỉ dưới cây Nhạc-âm, cùng với tám ngàn vị đại tỳ-kheo...
(Xem: 60196)
Bồ TátVô Tận Ý Khi bấy giờ chăm chỉ đứng lên Bèn trịch vai hữu một bên Chắp tay cung kính hướng lên Phật đài
(Xem: 27647)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 68783)
Chúng sanh đây có bấy nhiêu Lắng tai nghe lấy những điều dạy răn Các ngươi trước lòng trần tục lắm Nên kiếp nầy chìm đắm sông mê
(Xem: 24555)
Một thuở nọ Thế Tôn an trụ Xá Vệ thành Kỳ Thụ viên trung Mục Liên mới đặng lục thông Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm luân.
(Xem: 26394)
Lăng-già (Lanka) là tên núi, núi này do sản xuất châu Lăng-già nên lấy tên châu mà gọi tên núi. Núi nằm tại biển Nam là chỗ ở của Dạ-xoa.
(Xem: 20848)
Lư hương xạ nhiệt, Pháp-giới mông huân. Chư Phật hải hội tất diêu văn, Tùy xứ kiết tường vân
(Xem: 20092)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phảng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 27592)
Làm người Phật tử ở đời Đêm ngày tụng niệm những lời dạy khuyên Tám điều giác ngộ kinh truyền Ghi lòng tạc dạ tinh chuyên tu hành
(Xem: 46494)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 25625)
Phụng dịch theo bản đời Đường của Ngài Thiệt Xoa Nan Đà. Tham khảo các bản dịch đời Ngụy, Tống và bản dịch Anh Ngữ của Suzuki. - Dịch Giả: Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 29298)
VIMALAKĪRTINIRDEŚA - SŪTRA - Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết - Đường Huyền Trang dịch - bản dịch Việt: Tuệ Sỹ
(Xem: 189156)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi tam-bảo
(Xem: 27492)
Thắng Man Phu nhân điển hình cho phụ nữ thực hành Bồ tát đạo bằng cung cách trang nhã, từ ái, khiêm cung. Môi trường thực hành bao gồm từ giới hạn thân thuộc...
(Xem: 31171)
Kinh Pháp Cú (Kinh Lời Vàng), The Path of Truth - Việt dịch: Hòa Thượng Thích Minh Châu - Họa sĩ: Mr. P. Wickramanayaka (vẽ theo bản tiếng Anh mà HT Thích Minh Châu dịch) - Vi tính: Tâm Tịnh
(Xem: 33195)
Tích truyện Pháp Cú - Thiền viện Viên Chiếu - Nguyên tác: "Buddhist Legends", Eugène Watson Burlingame
(Xem: 24052)
Sau 45 năm thuyết pháp, những lời giảng daỵ của Đức Phật không những không bị quên lãng, thất lạc mà còn được lưu giữ, truyền bá mãi đến ngày nay...
(Xem: 25653)
Ta Bà là chốn tạm ở thôi Cửa không mau phải hồi đầu lại Hai sáu nguyện vương tiêu tai chướng Ba ngàn hoá Phật chứng lòng thành
(Xem: 26744)
Cuộc đối thoại đầy đạo vị hứng thú dĩ nhiên được truyền tụng khắp nơi trong giới Phật giáo cũng như ngoài nhân gian. Về sau, vào thế kỷ đầu sau Tây lịch, sợ để khẩu truyền lâu ngày
(Xem: 36695)
Ở phương Ðông cách đây hơn mười căn dà sa cõi Phậtmột thế giới tên là Tịnh Lưu Ly. Ðức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai
(Xem: 27368)
Lúc Đức Phật Thích-ca chứng đắc, Chuyển bánh xe chánh pháp độ sanh, Kiều-trần-như được duyên lành, Năm anh em họ viên thành lý chân,
(Xem: 30406)
Phật Thùy Ban Niết Bàn Lược Thuyết Giáo Giới Kinh (Kinh Di Giáo) - Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0389 - Cưu Ma La Thập dịch Hán; HT. Thích Trí Quang dịch Việt
(Xem: 37344)
Một thời Ðức Phật ở nước Xá Vệ, trong vườn Cấp Cô Ðộc, cây của thái tử Kỳ Ðà, cùng với các đại Tỳ Kheo Tăng... Thích Minh Định dịch
(Xem: 23920)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Kỳ Thọ Cấp Cô Độc gần thành Xá Vệ, với đại chúng khất sĩ gồm một ngàn hai trăm năm mươi vị. Hôm ấy vào giờ khất thực, Bụt mặc áo và ôm bát đi vào thành Xá Vệ.
(Xem: 37018)
Khuyến phát Bồ Đề Tâm văn; Âm Hán Việt: Cổ Hàng Phạm Thiên Tự Sa môn Thật Hiền soạn; Dịch: Sa môn Thật Hiền chùa Phạm Thiên Cổ Hàng soạn
(Xem: 27646)
Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm Kinh - Năm trăm Danh Hiệu Phật và Bồ Tát Quán Thế Âm
(Xem: 28364)
Công Phu Khuya
(Xem: 24179)
Nói một cách vắn tắt, sự xuất hiện của Duy-ma-cật là xu hướng khẳng định vai trò tích cực của chúng đệ tử tại gia trong giáo pháp của Phật, về các mặt hành đạo cũng như hóa đạo.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant