Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Giáo pháp Thời Luân không biện hộ hay tiên đoán một thế giới quyết chiến giữa thiện và ác

08 Tháng Tư 201100:00(Xem: 22581)
Giáo pháp Thời Luân không biện hộ hay tiên đoán một thế giới quyết chiến giữa thiện và ác

GIÁO PHÁP THỜI LUÂN KHÔNG BIỆN HỘ HAY TIÊN ĐOÁN
MỘT THẾ GIỚI QUYẾT CHIẾN GIỮA THIỆN VÀ ÁC

Tác giả: Alexander Berzin - Chuyển ngữ: Tuệ Uyển

blankGiáo Pháp Tương Tục [1] hay tantra cao nhất của Đạo Phật, Mật Điển Du Già Tối Thượng [2], dạy những phương pháp thiền quán song song với tiến trình của sự chết và tái sinh nhằm để thâm nhập trình độ vi tế nhất của tâm thức, trình độ Linh Quang biểu hiện một cách tự nhiên tại thời điểm lâm chung. Qua việc sử dụng trình độ đặc biệt này của tâm thức để đạt đến sự tỉnh thức an lạc vô phân biệt về tính không, hành giả xa lìa vĩnh viễn sự tương tục bất giác tinh thần, những cảm xúc phiền não, năng lực của nghiệp báo, và những khuynh hướng cùng thói quen của tất cả những điều này. Trong việc hoàn thành điều này, hành giả đạt đến sự chấm dứt thật sự những năng lựcnguyên nhân đưa đến sự lưu chuyển không thể kiểm soát của những sự chết và tái sinh phàm tình của họ, và vì thế đạt được sự giải thoátgiác ngộ vì thế các vị ấy có thể làm lợi ích hữu hiệu nhất cho mọi người.

Hệ thống Bí Mật Tập Hội [3] của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng [4] cũng bao hàm trình độ vĩ mô vũ trụ song song đến những phương pháp thiền quán cho việc thâm nhập vào tâm linh quang. Nó thự hiện sự liên hệ đến những vòng tuần hoànvũ trụ trải qua một cách định kỳ, với sự tái diễn không thể kiểm soát của tan rã (hoại), thời điểm trỗng rỗng (không), tiến triển (thành), và chịu đựng (trụ), tương tự đến những gì mà những chúng sinh bất toàn trãi qua với những sự tái diễn không thể kiểm soát của chết, thời điểm trung ấm thân, tái sinh, và thọ mạng của đời sống. Những sự thực hành thiền quán giải thoát hành giả khỏi sự khống chế không chỉ những chu kỳ tái diễn nội tại của chết, tái sinh, mà cũng tự do với những vòng tuần hoàn tương ứng ngoại tại của vũ trụ.

Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại. Nhằm để làm cho tiến trình tịnh hóa có thể hoàn thành trọn vẹn, hệ thống này trình bày một kiểu mẫu thiên văn học ngoại tại và những chu kỳ thiên văn, nhưng cũng đặt song song những thực hành thiền tập đặt biệt của nó. Vì cùng mục tiêu tính chất bao gồm, hệ thống cũng trình bày một hình ảnh bố trí đặc biệt của lịch sử, địa lý, và sinh lý học tương tự song song với cấu trúc này, nhưng điều ấy, do bởi đồ án có ý thức của nó, khác biệt với hình ảnh được trình bày trong những kinh luận Phật Giáo khác. Bằng việc thấu hiểu tất cả những hướng dẫn tương ứng này – và những cấu trúc vĩ mô xảy ra dưới ảnh hưởng của con ngườinghiệp nhân, hành giả tiếp nhận sự thiền quán Thời Luân tương ứng nhằm để tịnh hóa sự tương tục tâm linh nghiệp báo của họ và đạt đến giải thoát cùng giác ngộ. Do vậy, khuynh hướng căn bản của sự thực hành Giáo Pháp Thời Luân không khác với những hệ thống Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng.

Nhằm để làm cho sự trình bày của những thực hành thiền quán cho việc vượt thắng vô minh si ám và những cảm xúc phiền não hoang dã khơi dậy nghiệp chướng cần được tịnh hóa, Giáo Pháp Thời Luân thêm vào hình ảnh minh họa những chu kỳ diễn tả lịch sử của những đấng cứu thể chân chínhsai lạc, những sự xâm phạm Bạch Ngọc Cung (Shambhala), những chiến trận khải huyền, và những thời đại hoàng kim mới. Sự trình bày lịch sử này minh họa trên những đặc trưng của chính trị, sự kiện, và những tín ngưỡng tôn giáo – đạo đa thần phổ biến và những quan tâm về thời gian và địa điểm thể hiện trong văn học Thời Luân, đấy là vào đầu thế kỷ thứ mười Tây Lịch trong khu vực giữa miền Đông A Phú Hản và Kashmir.

Điều quan trọng để đánh giá sự kiện rằng văn kiện Giáo Pháp Thời Luân đã thiết lập một cách có ý thức những minh họa lịch sử phù hợp với cấu trúc của sự thực tập thiền quan. Do thế, sự dự đoán và một chiến trận quyết liệt tương lai giữa thiện và ác [5] xảy ra 1.800 năm sau việc tìm ra hệ thống tín ngưỡng của những năng lực xâm phạm, đại diện của vô minh si ám, tương đương:

1. 1.800 hơi thở xãy ra trong mỗi 12 thời điểm hoàng đạo[6] tượng trưng của một ngày.
2. 1.800 hơi thở đi chính yếu qua chóp mũi trong 12 thời điểm luân phiên của một ngày, trong ấy chính yếu thổi hơi thở luân phiên từ lỗ mũi này sang lỗ mũi kia.
3. 1.800 hơi thở thổi qua mỗi 12 kinh mạch hoàng đạo tượng trưng của luân xa rốn trong tiến trình một ngày.
4. 1.800 giờ chiêm tinh trong mỗi 12 tháng âm lịch, mỗi tháng có 30 ngày, trong mỗi ngày có 60 giờ chiêm tinh.
5. 1.800 phút trong 30 độ của mỗi 12 biểu tượng của hoàng đạo, mà trong mỗi độ có 60 phút.
6. 1.800 năm của sự rộ nở Giáo Huấn Thời Luân trong ‘lục địa’ của chúng ta sau chiến trận khải huyền [7].
7. 1.800 năm mà Giáo Huấn Thời Luân sẽ rộ nở sau đó trên mỗi 11 ‘lục địa’ khác trong sự trình bày địa lý của Giáo Pháp Thời Luân.
8. 1.800 hạt năng lượng hạt nguyên sơ sắp xếp trong mỗi khu vực của 12 khu vực thuộc kinh mạch năng lượng trung ương trong thời điểm của 12 cấp độ tâm thức của Bồ Tát địa.
9. 1.800 thời khắc không thay đổi của kinh nghiệm tỉnh thức an lạc trên căn bản của mỗi mỗi nhóm này của 1.800 hạt.
10. 1.800 khí năng lượng của nghiệp báo được chấm dứt và 1.800 khía cạnh của thói quen nghiệp báo được loại trừ bằng phương tiện của mỗi nhóm của 1.800 thời khắc của sự an lạc tỉnh thức không thay đổi của tính không.

Hơn thế nữa, mỗi khu vực chiến trận của những lực lượng xâm lược và phản công chiến thắng có một sự tương ứng với một hay những khía cạnh của vô minh si ám và lực lượng phản công của tuệ trí. Thế thì rõ ràng, hình ảnh lịch sử được trình bày trong văn học Thời Luân chưa bao giờ có khuynh hướng như một tuyên bố chính sách chính trị xã hội của Đạo Phật. Phải thừa nhận rằng, một ít trường hợp hiếm hoi đã từng xãy ra mà trong ấy một số lĩnh đạo quân sự của Cộng Hòa Nhân Dân Mông Cổ, Liên Bang Xô Viết, và Đế Quốc Nhật Bản đã khám phá những chủ đề trong hình tượng này cho mục tiêu chính trị. Nhưng những sự lạm dụng này bị căn cứ trên sự thấu hiểu sai lạc xu hướng của Giáo Huấn Thời Luân. Người ta không chứng minh rằng một việc thực hiện sự thấu hiểu sai lạc tương tự có bao giờ xãy ra, hiện tại, hay sẽ là chương trình chính trị của những Đạt Lai Lạt Ma Tây Tạng. Đưa đến kết luận như vậy là một sai lầm luận lý (logic) như kết luận rằng sự khởi đầu một cuộc Viễn Chinh thánh chiến hay Tòa Án Dị Giáo là chính sách thông thường của Giáo Hội Thiên Chúa (Christian Church).

Đối thoại và thấu hiểu liên tôn giáo, tốt hơnnghi ngờ sai lầm và mất niểm tin, là cần thiết cho việc nuôi dưỡng hòa bình thế giới. Ban pháp khai tâm Thời Luân là một cống hiến của Đạo Phật đến chương trình quan trọng vô cùng này và chắc chắn không là một tiến trình bổ sung cho một cuộc thánh chiến Phật Giáo. Nó đưa con người của những niềm tin khác biệt và tín ngưỡng trần gian kết hợp với nhau trong một không khí hòa bình cho một sự tái khẳng định chí nguyện đạo đức của con người để phản công vô minh si ámthành kiến với sự thông hiểutôn trọng hổ tương.


[*] Giáo Pháp Thời Luân: Kalachakra
[1] Giáo Pháp Tương Tục: Tantra – thuật ngữ Tantra có nghĩa là tương tục, tinh thần tương tục, đời sống tương tục- “Tiếp theo là Mật thừa, là điều mà tôi cho rằng có một số liên hệ đến lần chuyển pháp luân thứ ba. Từ ngữ ‘tantra’ có nghĩa là ‘sự tương tục’. Mật Điển Du-già có tên gọi là Trang Nghiêm Kim Cương Tâm Yếu Mật Điển giải thích rằng giải thích rằng tantra là một sự tương tục được định nghĩa là sự tương tục của tâm thức. Trên căn bản của tâm thức này, mà với cấp độ phát khởi chúng ta phạm phải những hành vi tiêu cực, như một kết quả của những điều đó, chúng ta trải qua vòng luân hồi tàn bạo của sinh tử. Trên con đường tâm linh, cũng trên căn bản của sự tương tục tâm thức mà chúng ta có thể tạo nên những sự cải thiện tinh thần, trải nghiệm những nhận thức cao thượng của đạo pháp và v.v… Nó cũng là căn bản của sự tương tục tâm thức mà chúng tathể đạt đến thể trạng toàn giác [nhất thiết trí]. Do thế, sự tương tục này của tâm thức luôn luôn hiện diện, đấy là ý nghĩa của tantra hay sự tương tục.” – Lần Chuyển Pháp Luân Thứ Ba – TỔNG QUAN VỀ NHỮNG CON ĐƯỜNG CỦA PHẬT GIÁO TÂY TẠNG. http://www.hoavouu.com/D_1-2_2-230_4-3860_5-75_6-1_17-165_14-1_15-2/
[2] Anuttarayoga
[3] Guhyasamaja
[4] Tantra Yoga Tối Thượng – Anuttarayoga tantra
[5] Armageddon battle
[6] zodiac
[7] the apocalyptic battle

Kalachakra Does Not Advocate or Predict an Actual World Armageddon
Tác giả: Alexander Berzin, March 2008
Ẩn Tâm Lộ ngày 04/12/2010
http://www.berzinarchives.com/web/en/archives/advanced/kalachakra/kalachakra_world_peace/kc_not_advocate_predict_armageddon.html
→ Read the full story |
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11163)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 16534)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 12018)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 12195)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12871)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 12836)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10337)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 14067)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10289)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13786)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16359)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 12068)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 13056)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11732)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12755)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10897)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 11069)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 11024)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11967)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12877)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 11160)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12692)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11432)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
(Xem: 12614)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 14185)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10931)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10604)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11291)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 12088)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13240)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12443)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15447)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 14416)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12195)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15473)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12089)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12489)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11275)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12160)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10698)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12615)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13261)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14950)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12775)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16666)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19759)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 12364)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 13619)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 12030)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11713)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12836)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14622)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12702)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15766)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13708)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12999)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 18106)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11255)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 12278)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13133)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant