Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phẩm 10 - Pháp sư

19 Tháng Sáu 201100:00(Xem: 9736)
Phẩm 10 - Pháp sư

PHÁP HOA KINH THÂM NGHĨA ĐỀ CƯƠNG
Hoà thượng Thích Từ Thông
Nhà Xuất Bản TP. Hồ Chí Minh 2001

Phẩm 10: PHÁP SƯ

Để dạy cho tám muôn Đại Sĩ, khi bấy giờ Phật nói với Bồ-tát Dược Vương rằng: Trong đại chúng đầy đủ hạng người Chư Thiên, Long Vương, Càn-thát-bà, A-tu-la… Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, Thanh Văn, Duyên Giác cho đến những người cầu thành Phật đạo. Không để riêng ai, nếu người nào ở trước Phật nghe kinh Diệu Pháp Liên Hoa, một câu một bài kệ nhẫn đến một niệm tùy hỉ, Như Lai đều thọ ký họ là người sẽ thành tựu quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Phật dạy tiếp: Sau Như Lai diệt độ, nếu có người nghe kinh Diệu Pháp Liên Hoa một câu một bài kệ cho đến một niệm tùy hỉ, Như Lai cũng thọ ký cho quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Người nào thọ trì, đọc, tụng , giảng nói, biên chép kinh Diệu Pháp Liên Hoa cung kính cúng dường bằng các thứ trân bảo, hương thơm, trang nghiêm đẹp đẽ… Dược Vương nên biết ác người đó đã từng cúng dường mười muôn ức Phật, đã thành tựu đại nguyện, vì thương xót chúng sanh mà sanh vào nhân gian đấy.

Dược Vương! Nếu có người hỏi trong thời vị lai, những chúng sanh nào sẽ được thành Phật thì nên chỉ những người vừa kể trên mà nói rằng những người đó sẽ thành Phật. Vì sao? Nếu có người trai lành, gái tốt nào thọ trì, đọc tụng, biên chép, giảng nói dầu là một câu của kinh Diệu Pháp Liên Hoa và dùng các thứ hương hoa, báu vật mà cúng dường, thì người đó đáng được nhân gian chiêm ngưỡngcúng dường như cúng dường Phật vì đó là hàng Đại Bồ tát đã thành tựu Chánh Giác nhưng vì thương chúng sanh mà nguyện sanh trên đời để phân biệt giảng nói kinh Pháp Hoa. Dược Vương nên biết! Người đó từ bỏ phước báu thanh tịnh để sanh vào đời trược ác, vì chúng sanhtruyền bá giảng nói kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Sau Như Lai diệt độ, nếu có người trai lành gái tốt có thể vì riêng một người mà nói kinh Pháp Hoa nhẫn đến một câu kinh phải biết người đó là sứ của Như Lai. Như Lai sai làm việc của Như Lai, còn nói chi người ở trong đại chúng vì nhiều người giảng nói.!

Dược Vương .! Nếu có người bất thiện, dụng ác tâm ở trước Phật chê mắng Phật suốt một kiếp tội còn nhẹ. Nếu có người hung hãn chưỡi mắng người tại gia hay xuất gia thọ trì, đọc tụng kinh Pháp Hoa thì tội rất nặng.

Dược Vương.! Người đọc tụng kinh Pháp Hoa, phải biết người đó dùng đức trang nghiêm của Phật tự trang nghiêm mình. Như Lai dùng vai mà vác người đó. Mọi người nên dùng những thứ: hương hoa, kỹ nhạc quý báu nhất trong cõi đời để cúng dường. Vì sao? Bởi vì nghe pháp của người đó nói trong khỏang giây lát bèn được tỏ ngộ chân lý rốt ráo đối với quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Để lập lại nghĩa trên đức Thế Tôn nói một bài kệ.

Rồi đức Phật dạy tiếp: Dược Vương! Kinh điển của ta có thể nói nhiều vô lượng, đã nói đang nói và sẽ nói mà trong đó kinh Pháp Hoa khó tin và khó hiểu. Kinh nầy là tạng bí yếu của chư Phật, không thể truyền trao khinh suất bừa bãi cho những người không đúng đối tượng căn cơ. Đây là thứ kinh chư Phật giữ gìn cẩn mật chưa từng diễn nói. Bởi vì Như Lai còn tại thế nói ra còn nhiều người oán ghét huống chi sau khi Như Lai diệt độ.

Dược Vương nên biết: Sau Như Lai diệt độ, người nào thọ trì, đọc tụng, biên chép , giảng nói cho người khác nghe, Như Lai lấy y mà trùm, người đó được chư Phật trong mười phương hộ niệm. Như Lai lấy tay xoa đầu và người đó cùng với Như Lai ở chung.

Dược Vương.! Ở nơi chốn nào có kinh nầy hoặc giảng nói hoặc đọc tụng nên xây tháp bằng bảy báu cao rộng đẹp đẽ mà trong đó không cần tôn trí xá lợi. Bởi vì trong đó có tòan thân Như Lai rồi. Nên dùng các thứ hương hoa, trân bảo, tràng phan… để cúng dường tháp. Người nào thấy tháp lễ bái cúng dường, phải biết những người đó đã gần gũi với quà Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Bồ tát hành đạo mà chưa thấy chưa nghe được kinh Diệu Pháp Liên HoaBồ tát chưa khéo tu đạo Bồ tát. Những chúng sanh cầu Phật đạo, hoặc thấy hoặc nghe, nghe rồi tin hiểu thọ trì nên biết người đó đã gần gũi với quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác rồi. Thí như có người khát nước đào giếng ở gò cao, đào thấy đất còn khô, biết rằng gần tới nước. Bồ tát cũng vậy, thọ trì, biên chép, giảng nói kinh Pháp Hoa phải biết quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác đối với Bồ tát đó gần kề.

Dược Vương.! Nếu Bồ Tát nào nghe kinh Pháp Hoakinh nghi sợ sệt đó là Bồ tát mới phát tâm. Nếu hàng Thanh Văn nghe kinh này mà kinh nghi sợ sệt đó là hàng Thanh Văn tăng-thượng-mạn.

Dược Vương .! Nếu có trai lành gái tốt sau Như Lai diệt độ muốn vì hàng tứ chúng mà nói kinh Pháp Hoa thì nên ở trong nhà Như Lai, mặc y Như Lai và ngồi trên tòa của Như Laithuyết kinh. Nhà Như Laitâm từ bi. Y Như Lai là nhẫn nhụcTòa Như Lai là “ Vạn Pháp Giai Không”.

Dược Vương, Phật dù ở thế giới khác xa xăm nhưng Phật sai hàng hóa nhơn, hàng tứ chúng (Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di) đến nghe pháp và tin nhận thuận theo không chống trái. Nếu nói pháp ở chổ vắng Như Lai sai Thiên Long, Càn Thát Bà… đến nghe pháp. Phật dù ở nước khác nhưng khiến người nói pháp luôn luôn được thấy thân ta. Nếu có quên sót câu lối. Như Lai sẽ nhắc cho họ nói kinh được đầy đủ.

Để lập lại nghĩa trên Thế Tôn nói một bài kệ…
 
 

THÂM NGHĨA

Pháp sư là người học hiểu cháp pháp, sống với chánh pháptruyền bá chánh phápThọ trì, đọc tụng, biên chép, giảng thuyết đều được công đức vô lượng, đều được gọi là Pháp sư.

Pháp Hoa Pháp Sư cần có những điều kiện căn bản thể hiện trong đời sống hằng ngày, thì việc lợi mình lợi người mới được viên mãn.

Kinh nói:

“ Lấy đại từ-bi làm nhà

Lấy nhu hòa nhẫn nhục làm áo

Lấy pháp không làm tòa ngồi

Ở nơi đó mà thuyết pháp

Nếu lúc nói kinh nầy

Có người ác mắng nhiếc

Đá, ngói, dao gậy, hại

Nhớ Phật nên nhẫn nhục…”

Pháp Hoa Pháp Sư có thể có khó khăn như vậy. Bởi vì kinh Pháp Hoa có những đặc điểm dị thường, ở nhiều kinh khác Phật chưa từng dạy đến.

1. Chỉ nghe chừng một bài kệ hoặc một câu kinh Pháp Hoa, Phật cũng thọ ký cho thành Phật.

2. Hoặc thọ trì, hoặc đọc tụng, hoặc biên chép, hoặc giảng nói chừng một bài kệ, Phật nói người đó không phải người thường.

3. Hỏi ai là người sẽ được thành Phật? Hãy chỉ những người có nghe và thọ trì, đọc tụng, giảng nói kinh Pháp Hoa.

4. Dùng ác tâm chê mắng Phật trọn kiếp, tội còn nhẹ hơn chê mắng người tại gia hay xuất gia thọ trì, đọc tụng, biên chép, giảng nói kinh Pháp Hoa.

5. Đọc tụng kinh Pháp Hoa là dùng đức trang nghiêm của Phật mà tự trang nghiêm mình.

6. Kinh đã nói, đang nói và sẽ nói nhiều vô lượng, chỉ có kinh Pháp Hoa khó tin và khó hiểu.

7. Kinh Pháp Hoa là tạng bí yếu không trao dạy cho người không đúng đối tượng. Phật tại thế kinh Pháp Hoa còn bị nhiều người oán ghét còn nói chi sau Như Lai diệt độ!

8. Sau Như Lai diệt độ, có ai biên chép, thọ trì , đọc tụng, giảng nói kinh Pháp Hoa, Như Lai lấy y mà trùm, lấy tay mà xoa đầu người đó.

9. Chỗ nào có kinh Pháp Hoa hoặc có người thọ trì, đọc tụng, biên chép giảng nói nên dựng tháp thất bảo cúng dường. Khỏi để Xá-Lợi Phật mà trong đó có toàn thân Như Lai rồi.

10. Pháp sư nói kinh Pháp Hoa nếu ở chỗ vắng vẻ, Phật sai Thiên-long, bát-bộ chúng đến nghe pháp. Còn Phật dù ở nước khác nhưng khiến cho vị Pháp sư luôn luôn thấy Phật. Và nếu quên mất câu nghĩa Phật dạy cho nhớ hiểu đầy đủ.

Quả là những sự kiên dị thường. Nếu có người bảo đó là chuyện hoang đường, thần thọai của thời tiền sử xa xưa, dường như chẳng có gì oan ức lắm. Người đệ tử Phật có trách nhiệm nghiên cứu tìm hiểu và dung hóa nó qua “bộ óc” trí tuệ để “nhận thức” lấy tinh hoa chánh pháp, bỏ đi cái bả văn tự ngôn từ vốn mượn để làm thứ “tá dược”. Cái tinh hoa của kinh Pháp Hoa là thứ dược liệu cực mạnh trị chứng bệnh “tự khinh” nặng nề của chúng sanhChừng nào chúng sanh còn bệnh tự khinh thì Pháp Hoa Pháp Sư chưa được nghỉ ngơi. Chừng nào chúng sanh biết mình là Phật, ở chung với Như Lai, thường thấy Như Lai, được Như Lai xoa đầu nhắc nhở… Bấy giờ, Pháp sư nhiệm vụ mới hoàn thành

Ta hãy tìm hiểu mười sự kiện dị thường được nêu ở trên:

1. Ta thử rút ra một câu kinh xem nào?

“Tôi không dám khinh các Ngài, vì các ngài đều sẽ thành Phật” (ngã bất cảm khinh ư nhử đẳng, nhử đẳng giai đương tác Phật)

Thế nào? Bạn có bằng lòng chấp nhận “bạn sẽ thành Phật” không?

Có.

Thế là Phật đã thọ ký cho bạn rồi đó. Nói rằng Phật thọ ký kỳ thật bạn thọ ký cho bạn chứ không phải cần đến Phật. Bởi vì Phật dù có nói thọ ký hay không, địa vị Phật, bạn cũng chẳng mất phần. Vì bạn đã nhận hiểu Phật-tánh của bạn thì sớm hay chậm bạn sẽ thành Phật. Nói cách khác là bạn “trở về” với cái ông Phật-tánh sẵn có của bạn. Bạn không biết mình là con trưởng giả nên phải đói rách, lang thang, lưu lạc. Khi bạn nhận ra ông trưởng giả là cha mình, bạn “trở về nhà” thì cái gia tài nguy nga đồ sộ, những kho tàng ngập đầy bảo châu vô giá của ông trưởng giả ấy là của bạn, chứ còn của ai nữa?

2. Những người thọ trì, đọc tụng, biên chép, giảng nói kinh Pháp Hoa, Phật nói những người đó không phải người thường.

- Tại sao vậy? – Vì người thường vốn có tánh “tự khinh”. Họ không tin mình có khả năng thành Phật. Càng không thể tin rằng mình là Phật, có Phật chất, có Như Lai ở trong tâm mầu nhiệm. Người thường nghĩ rằng Phật phải là một ông không phải là mình thì mới là Phật. Ông đó ngồi trên chánh điện chùa, đi lửng thửng trên may hay phải ngồi trên một tòa sen đẹp.

Hiểu Phật như thế thì biên chép, giảng nói kinh Pháp Hoa có nhằm gì ! Cho nên họ chẳng cần làm việc đó. Ngược lại, người thọ trì, đọc tụng, tu tập kinh Pháp Hoa, tự tin Tri Kiến Phật của mình. Tin mình có tâm Như Lai mầu nhiệm. Rồi quyết chí tu hành, cải tạo vô minh, diệt trừ phiền não, do đó, sớm muộn gì cũng đến ngày thành Phật Thế không phải sứ-giả Như Lai là gì?

3. Nếu hỏi ai là người sẽ được thành Phật? Hãy chỉ những người thọ trì, đọc tụng, biên chép, giảng nói kinh Pháp Hoa.

- Vì sao vậy?

- Vì người nầy tự tin mình thành PhậtBiết mìnhPhật Tri Kiến , biết có Như Lai Viên Giác Diệu Tâm.

4. Dùng ác tâm chê mắng Phật trọn kiếp, tội còn nhẹ hơn chê mắng người tại gia hay xuất gia thọ trì, đọc tụng, biên chép, giảng nói kinh Pháp Hoa.

- Sao lạ thế?

- Tai hãy chính chắn tư duy vấn đề nầy: Giả sử có người xỉ vào mặt ông Cù-đàm, ông Thích Ca Mâu Ni mà mắng. Thế nào? Họ đã mắng được Phật chưa?

Xin đáp rằng: Chưa. Họ mắng như thế không trúng Phật. Họ chỉ mắng được ông Cù-đàm, ông Tất-đạt-đa, ông Thích Ca theo danh ngôn thường xưng gọi. Cái hiện tướng tứ đại duyên khởi là Phật thì cả thế giới thành Phật cả, còn ai để gọi “chúng sanh”? Phật là cái giác tánh linh-tri, cái tinh-hoa trí tuệ chứa đựng ở trong cái hiện tướng duyên sanh đó, cái đó là Như Lai, là Viên Giác Diệu TâmTri Kiến Phật. Tất cả cái đó chứa đựng trong toàn bộ hệ tư tưởng giáo lý Pháp Hoa Kinh. Cho nên chê mắng kinh Pháp Hoa tức là chê mắng Phật tánh mình, xua đuổi Như Lai tâm mình, không tin mình có khả năng thành Phật. Người tự mắng, tự xua đuổi, tự khinh Phật mình như vậy tức là tự mình đốt cháy hạt giống thành Phật thì cái quả Phật dứt khóat tuyệt phần. Thế là làm cản trở con đường tiến lên Như Lai, Phật, của tất cả chúng sanh cho nên mang tội rất nặng.

Còn việc chê mắng ông Tất-đạt-đa, ông Thích Ca thì chưa đá động gì được Phật, Như Lai cả.

Ta ôn lại lời Phật dạy ở kinh Bát Nhã Kim Cương:

“Nếu dựa vào 32 tướng cho là Như Lai

Dựa vào âm thanh thuyết pháp cho là Như Lai.

Hiểu Như Lai như thế là người tà đạo.

Không hề thấy biết Như Lai đích thực.”

Hiểu Như Lai qua âm thanh sắc tướng không đúng thì mắng Như Lai qua huyễn tướngâm thanh cũng không nhằm được. Cho nên… gọi là tội chỉ là biểu lộ sự ác tâm của chính mình, tội “ngậm máu phun người, trước dơ miệng mình”, tội “tự chiêu kỳ họa ấy…” chớ Như Lai cũng chẳng bắt tội làm gì. Và thật sự Như Lai cũng chẳng có quyền gì để bắt. Vì Như Lai không phải “đấng thiêng liêng” có quyền thưởng phạt.

“Tùy trần trục cảnh, ngã pháp họanh sanh, vô minh cứu cánh vọng thành tham, sân, si, mạn hữu lậu nghiệp”

“Tuyệt tướng triền căn, tự tha bất cách, giác tánh bản lai cụ túc từ bi, hỉ, xả vô lượng tâm”.

Đó là câu đối của cụ Tâm Minh Lê Đình Thám, tôi thích quá viết vào đây để tặng chư độc giả cùng thưởng thức. Và nhớ rằng nền giáo lý của Phật giáo đại để là vậy đó. Như Lai có quyền thưởng phạt ai đâu!

5. Thọ trì, đọc tụng, giảng nói kinh Pháp Hoa là dùng đức trang nghiêm của Phật mà tự trang nghiêm mình.

- Có thật vậy không? Tại sao?

- Có. Tại vì đã chấp nhận, đã tin Phật tánh mình thì mình là Phật, tin tâm Như Lai của mình thì mình là Như Lai. Do đó cái gì Phật có, Như Lai có thì mình có. Người ăn mày thì không có cân đai áo mũ trưởng giả để mặc. Nhưng đã là trưởng giả thì mặc đồ trưởng giả, chứ sao!

6. Kinh điển Phật đã nói, hiện nói và sẽ nói nhiều vô lượng. Nhưng chỉ có kinh Pháp Hoa là khó tin và khó hiểu.

- Tại sao vậy?

- Tại vì các kinh “phương tiện”, “bất liễu nghĩa” thì để thích hợp với chúng sanh căn cơ vốn hạ-liệt, những tâm hồn yếu đuối thích ỷ lại vào sự ban ân, giáng phúc của một “ đấng tha nhân”. Còn kinh Pháp Hoa thì Phật dạy phải tin mình là Phật. Niết bàn không phải ở “cảnh giới” xa xôi nào khác. Phải khai thác cái “ tự tánh thanh tịnh Niết Bàn”. Phải sử dụng “Niết Bàn Vô Trụ Xứ” của Phật. Vì thế chúng sanh khó hiểu và khó tin.

7. Kinh Pháp Hoa phải đúng đối tượng mới nên trao truyền. Lúc Phật tại thế, kinh Pháp Hoa còn bị nhiều người oán ghét, huống là sau Như Lai diệt độ.

- Tại sao thế?

- Tại vì chúng sanh có tánh tự khinh, không tin nổi rằng mình có thể thành Phật. Mà kinh Pháp Hoa thì chỉ thẳng cái Tri Kiến Phật sẵn có, khiến chúng sanh tự ngộ-nhập, tự thành.

8. Sau Như Lai diệt độ, có ai thọ trì, đọc tụng, biên chép, giảng nói kinh Pháp Hoa Như Lai lấy y mà trùm, lấy tay xoa đầu người đó. Người đó cùng Như Lai ở chung.

- Sự thật có thế ư? Hình mạo Như Lai thế nào, khi Như Lai làm những điều đó?

- Như ta đã biết, Như Lai Viên Giác Diệu Tâm thì ai cũng có, cái thể bất biến của Tâm là Như. Cái dụng tùy duyên của tâm là Lai. Vì vậy, Như LaiThể DụngTâm Tánh thanh tịnh bản nhiên vốn có của mọi người.

“ Tâm sanh chủng-chủng pháp

Tùy duyên thủy thượng âu

Tánh chân-như bất biến

Như thủy, bổn thanh trừng

Bất biến tùy duyên chân thử tánh

Tùy duyên bất biến thị tha tâm

Minh tâm, minh liễu âu bào thượng

Kiến tánh thâm tri thủy diện trừng”
 
 

Dịch:
 
 

“Tâm sanh ra muôn pháp

Tùy duyên như bọt nước xao

Tánh, chân như bất biến

Như nước vốn lặng trong

Bất biến tùy duyên là tánh ấy

Tùy duyên bất biến chính là tâm nầy 

Minh tâm? Nhận rõ lao xao bọt

Kiến tánh? Nhìn sâu mặt nước bình”.
 
 

Ai mà chẳng sống bằng tâm tánh, chẳng ở cùng tâm tánh, chẳng tương quan tác động giữa nhục-thân và tâm tánh. Tách rời tâm tánh ra mà còn là một con người thì Phật không có nói bao giờ trong tòan bộ giáo lý Phật. Những đợt sóng “ tùy duyên” bao giờ cũng phát xuất, cũng ở trong lòng nước “ bất biến”. Nước duyên khởi ra sóng là việc dễ hiểu. Sóng nước không rời là việc tất nhiên. Cũng vậy mọi người ai cũng có Tâm Tánh Như Lai, khi thọ trì, đọc tụng, biên chép, giảng nói kinh Pháp Hoa là lúc “trở về” với Như Lai Tâm làm việc Như Lai Tánh thì được ở chung với Như Lai, được Như Lai rờ đầu vậy. Chỉ lo là mình có nhớ Như Lai, bằng lòng trở về ở chung với Như Lai không? Hay là bỏ nhà đi hoang để cho Như Lai phải khắc khỏai nhớ thương như ông trưởng giả nhớ thương đứa con hoang “cùng tử” của mình.

Người ham thọ trì, đọc tụng, biên chép, giảng nói kinh Pháp Hoa, là người “trở về nhà” chớ không là “ chàng cùng tử” tha phương cầu thực nữa, thì còn lạ gì việc ông trưởng giả choàng cho con mình chiếc áo đẹp, xoa đầu nựng nịu và ôm vào lòng ngủ chung một giấc yên lành mãn nguyện.! Vì bởi con cưng mà.!

9. Chỗ nào có kinh hoặc có người thọ trì, đọc tụng, biên chép, giảng nói kinh Pháp Hoa, nên dựng tháp bảy báu cúng dường, nhưng không cần để Xá Lợi Phật, vì trong đó có tòan thân Như Lai rồi

- Thân Như Lai là gì? Không cần Xá lợivẫn có toàn thân Như Lai trong tháp?

- Sao lại dựng tháp để cúng dường kinh? Đem phẩm vật để cúng dường cho Phật còn dễ hiểu. Dựng tháp để cúng dường kinh thì nghĩa lý thế nào?

Kinh Pháp Hoa là Pháp, thứ pháp tối thượng thừa triển khai Tri Kiến Phật trong tất cả chúng sanh. Thế thì Pháp là Phật vậy. Tháp tức là Pháp. Mà tánh của Pháp tức là tánh của Phật, vì Phật tánhPháp tánh không hai. Danh thì khác mà thể thì đồng. Trong Pháp tánhPhật tánh, trong Phật tánhPháp tánh.

Luật Hiển-dương Chánh-giác nói:

Phật tánh tại hữu tình

Pháp tánh tại vô tri

Phật pháp bản lai vô nhị tánh

Nhất hỏa năng siêu bách vạn sài”

Vốn cùng một tánh “chân như” nhưng tùy duyên sanh khởitác động vào hữu tình thì tánh chân như được trở thành tên gọi : “PHẬT TÁNH”. Cũng tánh chân như ấy tùy duyên vận động sanh khởitác động vào vô-tình thì gọi đó là “PHÁP TÁNH”. Kỳ thực Phật tánhPháp tánh không hai. Ví như một thứ lửa đem đốt nhiều thứ củi mà tên lửa và độ nóng của lửa có khác: lửa phân bò, lửa rơm, lửa củi, lửa than đước, lửa than đá …

10. Pháp sư nói kinh Pháp Hoa ở chỗ vắng vẻ, Phật sai Thiên-long, bát bộtứ chúng đến nghe. Phật dù ở chỗ khác nhưng khiến cho Pháp sư luôn luôn thấy Phật. Pháp sư quên, Phật dạy cho nhớ đầy đủ.

- Phải hiểu thế nào về sự kiện có vẻ huyền hoặc nầy?

- Phải hiểu thế nầy: Tâm Pháp sư đã có sẵn Như Lai, Phật, tâm Pháp sư tự có đủ Tứ Thánh, Lục Phàm, khắp trùm mười pháp giới. Phật và ta cùng ở chung nhau, lỡ quên mất câu lối thì “Thiền Định” để mời Phật đến, ôn cố tri tân, “tư duy” lời Phật, thì Phật, Như Lai Thanh Tịnh Tâm xuất hiện dạy bảo cho mà biết mà nhớ. Phật Thích Ca cách đây hơn hai nghìn năm trăm năm trước, cũng thỉnh Phật đến hộ niệm cho để thuyết kinh Pháp Hoa cũng bằng lối nầy. Còn Thiên Long bát bộ thì lúc nào chẳng túc trực ở tâm ta. Cứ “tu duy” trong thiền định, cứ giảng nói kinh Pháp Hoa đi, Thiên Long bát bộ vẫn nghe rõ, chín cõi chúng sanh đều nghe rõ.

Phật Thích Ca, Phật Di Đà, Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai dù ở nước khác, nhưng “Như Lai Viên Giác” “Tri Kiến Phật” lúc nào chẳng có ở lòng mình.

Muốn thấy Phật, gặp gỡ Phật chỉ cần dời chúng sanh đi nơi khác thì Phật cùng Pháp sư đối diện, đàm đạo Phật pháp, khó gì.!
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11148)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 16498)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 11988)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 12149)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12841)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 12785)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10287)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 14026)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10266)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13765)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16324)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 12042)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 13033)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11711)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12730)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10861)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 11043)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 10987)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11941)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12833)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 11137)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12673)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11384)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
(Xem: 12576)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 14167)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10911)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10584)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11253)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 12061)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13216)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12403)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15409)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 14388)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12157)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15435)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12048)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12471)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11245)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12136)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10667)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12591)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13224)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14911)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12747)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16628)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19730)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 12316)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 13575)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11995)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11688)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12803)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14584)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12668)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15719)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13665)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12958)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 18071)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11229)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 12236)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13100)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant