Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phẩm 13 - Khuyến trì

19 Tháng Sáu 201100:00(Xem: 9360)
Phẩm 13 - Khuyến trì

PHÁP HOA KINH THÂM NGHĨA ĐỀ CƯƠNG
Hoà thượng Thích Từ Thông
Nhà Xuất Bản TP. Hồ Chí Minh 2001

Phẩm 13: KHUYẾN-TRÌ

Lúc bấy giờ Bồ-tát Dược Vương và Bồ-tát Đại Nhạo Thuyết cùng hai muôn Bồ-tát quyến thuộc, ở trước Phật nói lên lời thề rằng:

Cúi xin Thế-Tôn chớ lo, sau Phật diệt độ chúng sanh tôi sẽ tuân giữ, đọc tụng kinh điển nầy. Chúng sanh trong đời ác về sau, căn lành lần lần ít, kiêu ngạo nhiều thêm tham lợi háo danh, trồng sâu nghiệp bất thiện, xa lìa giải thoát. Tuy khó giáo hoá như vậy, chúng con sẽ dùng sức nhẩn lớn, trì tụng biên chép diễn nói, hy sinh mọi cách thậm chí không tiếc thân mạng để giáo hoá cho họ.

Bấy giờ trong đại chúng 500 A-la-hán đã được thọ ký, bạch Phật rằng: Thế Tôn ! Chúng con cũng tự thệ nguyện truyền bá rộng kinh nầy ở những nước khác.

Lại có 8.000 vị hữu học, vô học cũng đã được thọ ký rồi, lập lời thề trước Phật: Chúng con cũng ở nơi nước khác giảng nói rộng kinh nầy. Tại vì cõi nước Ta-Bà phần lớn con người hay che giấu điều ác, ôm lòng tăng-thượng-mạn, công đức cạn mỏng, hận thù, nịnh hót vì tâm không thành Phật.

Lúc bấy giờ bà Dì của Phật là Tỳ kheo ni Ma-ha-ba-xà-ba-đề cùng với 6.000 Tỳ kheo ni của hai hạng hữu họcvô học, đổng đứng dậy, chấp tay chiêm ngưỡng tôn nhan Phật, mắt không tạm rời. Thế Tôn mới hỏi: Kiều-đàm-di! Vì cớ nào mà ngó Như Lai với vẻ lo âu như vậy? Phải chăng vì ta không kêu tên thọ ký cho chúng ngươi? Này Kiều-đàm-di, ta trước thọ ký tổng quát cho tất cả Thanh-Văn, nay ngươi đã muốn thì ta nói trước cho biết, đời sau, ngươi sẽ làm Đại Pháp Sư của 68.000 Phật pháp còn 6.000 Tỳ kheo ni trong hàng hữu họcvô học, cũng sẽ làm Pháp Sư. Lần hồi ngươi sẽ đầy đủ đạo Bồ tát và sẽ được thành Phật, hiệu Nhất-thiết-chúng-sanh-hỉ-kiến Như Lai. Này Kiều-đàm-di, Phật Hỉ Kiến và 6.000 Bồ tát sẽ tuần tự thọ ký được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Bấy giờ, mẹ của La-hầu-la là Tỳ-kheo-ni Gia-du-đà-la thầm nghĩ: Thế Tôn thọ ký cho mọi người sao riêng mình chẳng nói tới tên? Phật kêu Gia-du-đà-la nói: Đời sau, trong năm ngàn vạn nước pháp môn của Phật, ngươi sẽ tu hạnh Bồ-tát, làm Đại Pháp Sư, lần hồi đầy đủ Phật đạo, rồi ở nơi nước Thiện, sẽ thành Phật hiệu Cụ-túc-thiên-vạn-quang-tướng Như Lai.

Kiều-đàm-di, Gia-du-đà-la và tất cả Tỳ kheo ni đều vui mừng hớn hở, cho là được của quí giá chưa từng có.

Sau khi đọc một bài kệ, các Tỳ-kheo-ni bạch Phật: Thế Tôn, chúng con có thể rộng nói kinh nầy ở các nước phương khác không?

Phật bèn ngó 80.000 muôn vạn ức na-do-tha Bồ-tát. Các Bồ-tát này toàn là bậc bất-thối-chuyển và đã được các “tổng trì”, bèn từ chỗ ngồi đứng dậy, đến trước Phật, chấp tay nghĩ nói trong lòng rằng: “Nếu Thế Tôn dạy, chúng con sẽ như lời Phật mà rộng nói kinh nầy”. Rồi lại nghĩ: “ Phật nay làm thinh không dạy, bây giờ chúng ta sẽ nói gì đây?”

Khi ấy, vừa để thuận theo ý Phật, vừa để thoả mãn sở nguyện của mình, các Bồ-tát bèn thề lớn trước Phật: “ Thế Tôn, sau Như Lai diệt độ, chúng con sẽ đi khắp mười phương thế giới, khiến chúng sanh biên chép kinh này, lãnh giữ, đọc tụng, giải nói ý nghĩa, theo pháp tu hành, sửa điều nghĩ nhớ cho chân chánh được như thế là toàn nhờ uy lực của Phật. Cúi xin Thế Tôn ở phương khác, xa thấy mà hộ trì cho!”
 
 

THÂM NGHĨA

đệ tử Phật vấn đề Văn-tư-tu phải là một tiến trình liên tục không thể thiếu. Các vạc ba chân, thiếu một không đứng vững. Văn-tư-tu thiếu một, sẽ không có quả giải thoát giác ngộ.

Nguyện trì Kinh Pháp Hoa đồng nghĩa với nguyện tu theo Kinh Pháp Hoa, chấp thọ hành trì theo giáo lý Pháp Hoa. Đó là ý nghĩa trì kinh ở mặt tiêu cực. Về mặc tích cực, trì có nghĩa là xiển dương, là truyền bá, là biên chép, giảng nói cho nhiều người nhập Tri Kiến Phật. Chữ trì ở phẩm nầy gồm ý nghĩa của cả hai mặt đó.

Từ các phẩm trước được Khai Thị về Tri Kiến Phật. Đại chúng trong hội Pháp Hoa đã nhận thức rõ về “ Chánh nhơn thành Phật” của mình: Rằng Tri Kiến Phật hay là Phật tánh là cái mà tất cả chúng sanh bình đẳng có. Còn thành Phật hay sẽ thành Phật chỉ là vấn đề thời gian, cũng như sự phát triển sớm muộn của những hoa sen trong cánh đồng sen vậy. Điều kiện đất nước, thời tiết thuận lợi thì sen ở đây mọc sớm, trổ hoa sớm, hoa to và đẹp. Đất xấu, điều kiện trợ duyên kém thì hoa nở muộn… Dù muộn, nhưng tánh chất trong nhân có sẵn quả: quả ở chính trong nhân của tất cả hoa sen thì không có một mảy may sai khác.

Trì kinh là Duyên nhơn Phật tánhđiều kiện kích phát sức nảy nở làm cho hoa Tri Kiến nở nhanh, cũng như đất nước, thời tiết cần cho sự nảy nở hoa sen vậy.

Nhưng ai là người có khả năng trì kinh tốt nhất? Có gì khó khăn trở ngại trong việc trì kinh?

Có bốn hạng người có khả năng làm việc đó:

1. Hàng Đại Bồ Tát (những người giàu đức tánh vô ngã vị tha)

2. Bậc A-la-hán (những người trừ sạch nhân hữu lậu trong ba cõi)

3. Hàng hữu học vô học (những bậc nhập lưu, đi theo chiều hướng giác ngộ giải thoát)

4. Hàng Tỳ Kheo Ni (những người quyết tâm tu giải thoát)

Trì kinh với nghĩa tiêu cực thì tất cả giống nhau, bốn hạng người có cùng ý chí ham tu hiếu học đối với Kinh Pháp Hoa.

Nhưng về mặc tích cực, phát nguyện trì kinh phải có điều kiện:

- Phải có nhiệt tình, vô ngã vị tha

- Phải có khả năng nghị lực

- Phải có trình độ kiến thức nội minh

- Phải có biện tài chinh phục vv…

Bởi lẻ địa bàn hoạt động truyền bá Kinh Pháp Hoa không phải ở lãnh vực nào cũng thuận lợi, ở quốc độ nào cũng dễ dàng.

Ta hã nghe về tinh thầ bất khuất chuẩn bị chịu đựng sự khó khăn của những Bồ tát tự nguyện trì Kinh Pháp Hoacõi Ta Bà, qua bài kệ dưới đây:

Cúi mong Phật chớ lo

Sau Phật diệt độ rồi,

Trong đời ác ghê sợ

Chúng con sẽ rộng nói

Dầu có người không trí

Dùng lời ác mắng rủa…

Cùng gậy dao đập chém

Chúng con đều sẽ nhẫn

Dầu Tỳ Kheo đời ác

Trí tà-dâm vạy méo,

Chưa chứng, xưng đã chứng

Kiêu căng đầy trong lòng,

Hoặc có hạng “A-nhã”

Y, nạp xem ra phết,

Tự cho hành nhân đạo,

Xem nhẹ người thế gian:

Vì lòng tham lợi dưỡng,

Thuyết pháp cho bạch y

Với ý được cung kính

Như lục thông La Hán

Lòng hạng ấy chứa ác

Thương nghĩ việc thế tục

Giả danh A-luyện-nhã

Bới sai lầm chúng con

Mà nói những lời này:

Các thầy Tỳ kheo ấy

Vì lòng tham lợi dưỡng,

Luận giả theo ngoại đạo

Tự tạo kinh điển này,

Láo dối người thế gian.

Hoặc vì cầu danh tiếng

phân biệt kinh nầy.

Hoặc thường trong đại chúng,

Muốn nói xấu chúng con;

Hướng nhà vua, quan lớn

Bà-la-môn, nhà giàu

Cùng các Tỳ kheo khác

phỉ báng chúng con:

Bảo chúng con tà kiến

Luận giải theo ngoại đạo.

Vì lòng kính tin Phật,

Chúng con đều sẽ nhẫn.

Dầu họ có khinh khi,

Tự xưng là Phật sống,

Trước lời kiêu ngạo ấy,

Chúng con cũng sẽ nhẫn.

Trong đời ác kiếp trược,

Có nhiều sự sợ hãi,

Các quỉ nhập thân người

Mắng rủa nhục chúng con, 

Chúng con kính tin Phật,

Sẽ mang giáp nhẫn nhục.

Để giảng nói kinh nầy, 

Chúng con sẽ nhẫn mọi khó.

Thân mạng không hề tiếc

Chỉ tiếc vô thượng đạo.

Chúng con trong đời sau, 

Sẽ giữ gìn lời Phật.

Thế Tôn sẽ tự biết:

Tỳ kheo đời ác trược

Không biết Phật phương tiện

Tuỳ nghithuyết pháp,

Châu mày dùng miệng ác,

Lúc lúc đuổi chúng con.

Xa lìa nơi chùa tháp.

Các việc ác như thế

Nhớ lời Phật dạy bảo,

Chúng con sẽ nhẫn hết

Nơi thành ấp, tụ lạc

Nếu có người cầu pháp

Chúng con đều đến nơi

Nói pháp của Phật truyền

Chúng con là sứ Phật

Ở trong chúng không sợ

Vì thiện sẽ nói pháp,

Xin Phật hãy an lòng.

Nay đứng trước Thế Tôn

Cùng mười phương chư Phật

Chúng con có lời thệ này,

Phật ắt tự rõ lòng con
 
 

Sự khó khăn của Bồ-tát trì kinh Pháp Hoacõi Ta Bà như thế đấy. Tìm hiểu nguyên nhân ta thấy:

Phát xuất từ hàng Tỳ Kheo được mệnh danh là Tăng-Thượng-Mạn. Họ tự bảo thủ quả vị La-Hán cho là cứu cánh Niết Bàn, không có ý mong cầu thành Phật. Từ mặc cảm tự ti nầy họ chống đối phỉ báng Kinh Pháp Hoa.

Xuất phát từ lòng Tỳ Kheo mưu cầu lợi dưỡng; hạng người nầy cố chấp tự tôn, cho rằng mình, chỉ có mình là người tu chơn đạo khả kính trên thế gian nầy. Còn tất cả người thế gian không ai có thể đạt đến cái chơn đạo của họ tu chứng.

Trong khi nền giáo lý Pháp Hoa chủ trương Khai Thị Chúng Sanh Ngộ Nhập Phật Tri Kiến; tất cả chúng sanh là Phật sẽ thành. Quả là một tạc đạn bắn ra sụp đổ một lúc hai toà thành bảo thủ tự ti và cố chấp tự tôn của hai hạng người tiêu nha bại chủng ấy. Do đó, bằng mọi cách họ công kích, phỉ báng những Bồ Tát Trì Kinh Diệu Pháp Liên Hoacõi Ta Bà. Vì thế, phát nguyện trì kinh ở cõi Ta Bà chỉ có Bồ Tát Đại Dược Vương, vua của y-dược-sĩ, có khả năng trị bệnh tà kiến tự tôn, tự ti của thế nhân và Bồ Tát Đại Nhạo Thuyết, nhà biện tài vô ngại, có khả năng tồi tà phụ chánh, cầm đầu thì việc làm mới thành tựu tốt đẹp. Nói rõ ra là muốn xiển dương truyền bá Kinh Pháp Hoa ở vào đời ngũ trược nầy phải là người có những đức tánh của một Bồ-tát vô ngã, vị tha, cương nghị, quả cảm, thông minh, trong đó nội minh phải vững vàng, có biện tài, có khả năng thuyết phục, giải đáp được những chấp mắc sai lầm… thì mới đủ điều kiện triển khai truyền bá Kinh Pháp Hoa; nếu không có những yếu tố cần thiết đó thì khó mà trì kinh ở cõi đời lắm người “tự ti”, lắm người “ tự tôn” vì mưu cầu hư danh huyễn lợi nầy.

Hàng Đại A-La-Hán, những người hữu học vô học, các hàng Tỳ kheo ni, trước Phật có phát tâm nguyện trì kinh; nhưng không ở trong hàng ngũ của Bồ-tát Đại Dược Vương và Đại Nhạo Thuyết thì xin đi nước khác mà trì, vì ở nước khác sẽ được an lành hơn, không có đối lập nguy hiểm như ở cõi Ta Bà. Biện tài không giải đáp nổi nghĩa lý thậm thâm; trí lựcpháp lực không đủ khả năng trị liệu các bệnh tà kiến, biên kiến, kiến thủ của người đời thì nê đi “ cõi khác” mà truyền bá Kinh Pháp Hoa vậy.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11152)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 16513)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 12006)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 12163)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12853)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 12807)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10303)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 14037)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10274)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13770)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16337)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 12048)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 13042)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11716)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12742)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10881)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 11056)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 11013)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11961)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12857)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 11153)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12677)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11407)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
(Xem: 12590)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 14180)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10921)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10600)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11278)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 12077)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13227)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12417)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15419)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 14410)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12171)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15460)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12062)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12480)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11263)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12140)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10680)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12599)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13243)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14926)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12756)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16643)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19748)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 12340)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 13596)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 12013)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11699)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12817)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14604)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12681)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15751)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13692)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12977)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 18080)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11242)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 12258)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13106)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant