Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Phật thuyết ân cha mẹ khó đền đáp

19 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 20126)
Kinh Phật thuyết ân cha mẹ khó đền đáp

KINH PHẬT THUYẾT
ÂN CHA MẸ KHÓ ĐỀN ĐÁP
(Phật Thuyết Phụ Mẫu Ân Nan Báo Kinh)

Hán dịch: Tam Tạng An Thế Cao
Thích Nữ Tịnh Quang dịch Việt và bình giải

blankNghe như vậy, một thời Đức Thế Tôn ở thành Xá Vệ, vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc Viên; bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các thầy Tỳ Kheo, cha mẹ đối với con có ân đức vĩ đại, bú mớm un đúc, dựa vào thời tiết để nuôi nấng con… và hình hài con mới được trưởng thành.

Như có người vai phải cõng cha, vai trái cõng mẹ, trãi qua hàng nghìn năm, gặp lúc cha mẹ tiểu tiện ở trên vai mà lòng không hề hờn giận mẹ cha; người con này cũng chưa đền đáp đủ ân đức của cha mẹ.

Muốn đền đáp ân đức cha mẹ là khi cha mẹ chưa có lòng chính tín thì khuyên bảo cha mẹ có lòng chính tín để có được nơi an ổn từ niềm tin đó, nếu cha mẹ chưa có tiếp nhận giới thì khuyên nên thọ giới quy y để có được nơi an ổn từ sư tiếp nhận giới, nếu cha mẹ không chịu nghe giáo pháp thì khuyên bảo họ nên nghe để có được sự an lạc từ việc nghe đó, nếu cha mẹ tham lam thì khuyên cha mẹ thực hành hạnh bố thí, vui vẻ khuyến khích để cho cha mẹ có được nơi an ổn. Nếu cha mẹ không có trí tuệ thì giúp cha mẹ học hỏi sáng tuệ, vui vẻ khuyến khích để họ có được niềm an lạc.

Như vậy mà khuyên (cha mẹ) chánh tín đối với chư Như lai, bậc Chí chơn đẳng chánh giác, bậc Minh hạnh thành, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Đạo pháp ngự, Thiên nhân sư, hiệu Phật Thế tôn.[1]

Và khuyên cha mẹ chánh tín đối với giáo pháp; tiếp nhận giáo pháp để có được nơi an ổn, hiểu được các pháp thậm thâm, hiện tiền đạt được kết quả từ ý nghĩa cao siêu đó; như thế là người trí, mới minh thông việc (khuyên nhắc) này.

Lại khuyên cha mẹ chánh tín với Thánh chúng (Tăng bảo). Thánh chúng của Như lai là bậc tu hành hoàn toàn thanh tịnh, là bậc mô phạm thường hoà hợp, thành tựu các pháp, Thành tựu Giới, thành tựu Định, thành tựu Trí tuệ, thành tựu Giải thoát, thành tựu Giải thoát tri kiến.[2]

Sở dĩ gọi là Thánh chúng vì các vị này đã và đang thành tựu Tứ song Bát bối [3], đó là Như lai Thánh chúng, bậc xứng đáng tôn quý, nên tôn phụng và kính ngưỡng, các vị Thánh chúngruộng phước Vô thượng cho thế gian.

Như thế các người con (hiếu), nên khuyên cha mẹ mình thực hành (nếp sống) đạo từ bi.

Các thầy Tỳ kheo thì có hai đứa con, đó là con sinh (cho pháp) và con dưỡng (tu pháp). Như thế Tỳ kheo có hai người con, cho nên chư Tỳ kheo cần phải phát huy đứa con sinh của mình, nghĩa là miệng thường phát ra lời Pháp vị, do đó các Tỳ kheo, nên như vậy mà tu tập.

Bấy giờ các thầy Tỳ kheo, nghe lời dạy của Đức Thế tôn rồi, vui vẻ vâng làm.

 

Lời bình:

“Thiên kinh vạn điển, hiếu hạnh vi tiên,” câu này ai cũng nằm lòng, nhưng xem ra việc thực thi không phải là dễ dàng, nhất là trong một xã hội thực dụng và những biến động cuồng loạn như ngày nay.

Xã hội Á đông ngày xưa thì lấy thước đo đạo đức chuẩn mẫu của con người xuyên qua việc hiếu đạo đối với mẹ cha. Kinh Thi nhắc nhở: “Thương thay cha mẹ, khổ cực nuôi ta, muốn báo thâm ân, như trời cao lồng lộng…” (Ai ai phụ mẫu, sanh ngã cù lao, dục báo thâm ân, hiệu thiên võng cực…) Không dừng lại ở đây, người Trung Quốc có câu châm ngôn: “Tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Trong việc tề gia, người Trung Quốc đặt căn bản sự tôn ti trật tự và hòa ái trong gia đìnhyếu tố căn bản, đặc biệt việc tôn kính cha mẹ là trên hết; người có hiếu đạo mới có thể làm được việc chính trị, đứng đầu trăm họ. Lịch sử của Trung Quốc ghi nhận rằng, thời đại an bình và huy hoàng nhất của Trung Quốc là thời vua Ngu Thuấn và vua Văn Đế, trước khi ra làm vua hai vị minh quân này đã có hiếu đạo, tôn phụng cha mẹ cảm động đến trời đất (Nhị Thập Tứ Hiếu).

 Truyền thống hiếu đạo nghìn đời của văn hóa Việt nam thì được thể hiện qua câu ca dao bất hủ:

“Công cha như núi thái sơn

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.”

Như thế mà hiểu, ơn cha cao vời vợi, tình mẹ thì vô cùng…và những ai thực thi được hạnh hiếu đều được xã hội yêu mến và kính trọng dù kẻ đó không biết được một chữ i tờ.

Theo quan điểm của Đức Thế Tôn, sự quí kính và phụng dưỡng hết lòng đối với cha mẹ là chưa đủ để nói lên công lao trời biển của hai đấng sinh thành, dù cho chúng ta có cõng cha mẹ hàng nghìn năm, hay như cái hiếu của Giang Cách đời nhà Hán cõng mẹ lánh nạn về Hạ Bì thì cũng không thấm vào đâu cả. Bởi vì dù cho chúng ta có lo “hơi ấm quạt nồng,” giúp cho cha mẹ ăn ngon mặt sướng, cõng cha mẹ đi chơi suốt năm này tháng nọ…vẫn không giúp cha mẹ thoát được nỗi khổ đau của thân xác như già, bệnh… và nỗi khổ đau do vô minh nên luân chuyển trong vòng sinh tử luân hồi bất tận.

Trong kinh Đức Thế Tôn thường dạy: “trong tất cả nỗi đau khổ thì vô minh chính là sự đau khổ lớn nhất..” cho nên Đức Thế Tôn khuyên bảo những người con hiếu rằng, nếu thương cha mẹ thực lòng, ngoài việc phụng dưỡng ra chúng ta nên khuyến khích cha mẹ tiếp nhận giới, pháp và tu tuệ, chỉ có cha mẹ mình đi đúng trên con đường tam vô lậu học như thế mới có thể bước ra khỏi bóng tối đêm dài của vô minh, là nơi an ổn nhất, nơi hạnh phúc nhất để nương tựa khi tuổi xế chiều.

Ngày nay ở các nước Tây phương (nhất là Hoa Kỳ) thì cha mẹ già yếu là trọng trách của xã hội và của chính quyền hơn là người con. Văn hóa Á châu cũng đã thay đổi, ở Việt Nam không ít cha mẹ già cả cảm thấy cô đơn bèn đến chùa để tìm nguồn an ủi tâm hồn thì may ra mới năn nỉ được con mình cùng đến chùa ! Phải chăng thời đại vật chất đã lấn át những giá trị cao quý của tinh thần?

Theo lời dạy của Đức Thế Tôn, người Phật tử muốn làm tròn hiếu đạo phải có trách nhiệm giúp cha mẹ thoát khổ được vui; không phải là cái vui mà Lão Lai đời Xuân Thu làm hề cho cha mẹ cười cả ngày, đây chỉ là cái vui của nhất thời, mà là tạo điều kiện cho cha mẹ có được niềm an vui lâu dài từ việc rủ bõ tham-sân-si khi quay về nương tựa tam bảo.

Khi còn trẻ mẹ cha chúng ta đã vắt kiệt tuổi xuân để lo cho con cái, khi nhan sắc đến độ hoàng hôn, thân xác già nua thì họ có mặc cảm vô dụng, đứng bên xó xỉnh cuộc đời…chúng ta không thể làm bất cứ điều gì để khỏa lấp nỗi buồn mênh mang đó (!). Cách duy nhất là khuyên bảo cha mẹlòng tin đối với Phật, Pháp và Tăng. Khi cha mẹchánh tín đối với Phật, họ sẽ nhân ra được khả năng giác ngộ vốn có của mình. Khi cha mẹchánh tín đối với Pháp, họ sẽ tìm thấy con đường tu tập để vượt thoát sinh tử luân hồi và có được hạnh phúc chân thật. Khi cha mẹchánh tín đối với Tăng, họ sẽ nhận ra được tánh giác thanh tịnh của mình. Người Phật tử vâng lời Phật dạy mà khuyên bảo cha mẹ quay về Tam bảo thì không còn hiếu hạnh nào hơn.

Đức Thế Tôn là một đặc trưng cụ thể của tấm gương hiếu hạnh này. Sau khi thành đạo Ngài đã đem giáo pháp độ cho vua cha, trước lúc băng hà nhờ tiếp nhận giáo pháp mà vua Tịnh Phạn chứng đắc Tu Đà Hoàn quả; song song việc này Ngài lại lên cung trời Đao Lợi thuyết pháp để độ cho mẹ; và đặc biệt Ngài đã tiếp nhận Di mẫu và năm trăm nữ Xá Di của hoàng tộc xuất gia và đều chứng đắc Thánh quả A La Hán.

Đối với Mạnh Tử thì “bất hiếu có ba, không con nối dõi là lớn nhất” (bất hiếu hữu tam, vô hậu vị đại-Hiếu Kinh); khác với thế gian, Đức Thế Tôn đặt nặng vấn đề giải quyết những nỗi đau khổ tinh thần cho cha mẹ ngay khi cha mẹ còn sống “Phụ mẫu Tại đường như Phật tại thế”; những người xuất giabiểu tượng của lòng hiếu đạo, bởi vì họ không ràng buộc bởi tình thương yêu đối với vợ (chồng) con, mục đích của hàng Tăng bảo là “thượng cầu Phật đạo hạ hoá chúng sinh,” chúng sinh ở đây trước hết là cha mẹ hiện đời, và sau đó là cha mẹ của nhiều đời; đó là ý nghĩa cao cả nhất của hiếu đạo.

Thay vào đó Đức Thế Tôn xác nhận rằng, người xuất gia không phải là kẻ “vô hậu,” mà mỗi thầy Tỳ Kheo đều có hai người con cần phải nuôi nấng, đó là con sinh và con dưỡng. Con sinh: nghĩa là người xuất gia phải biết sáng tạo, phải biết nói (viết, thể hiện) ra pháp vị để lợi lạc hữu tình. Con dưỡng: nghĩa là người xuất gia phải tu tập giới (thiền)- định-tuệ để nuôi dưỡng huệ mạng của mình. Hai người con mà Đức Thế Tôn nói trong kinh sẽ tiếp nối giòng giống thánh làm cho Phật pháp cửu trụ ta bà, chúng sinh (là cha mẹ thân bằng quyến thuộc của chúng ta nhiều đời) nhờ đó mà được thấm nhuần mưa pháp an lạc; Như thế mới gọi là đền đáp đầy đủ thâm ân cha mẹ.

________________________________________________

Chú giải:

[1] Mười Đức hiệu của Phật (Mục Tư Vấn-GNO):

1) Như Lai (S.Tathàgata), bậc nương vào Chân như (Như) mà đến (Lai) và thành Chánh giác. Theo kinh Kim Cang, Như Lai có nghĩa là “Vô sở tùng lai, diệc vô sở khứ”, không từ đâu đến và cũng chẳng về đâu, hàm ý từ bản thể Chân như (hiện ra) và có mặt cùng khắp mọi nơi. Khi nói về mình, Phật Thích Ca xưng là Như Lai.

2) Ứng Cúng (S.Arhat), bậc xứng đáng thọ nhận sự cúng dường của trời và người. Ứng Cúng còn là một đức hiệu của các bậc thánh A-la-hán (phần kinh văn thiếu.)

3) Chánh Biến Tri (S.Samyak-sambuddha), bậc có khả năng hiểu biết (Tri) đúng đắn (Chánh) và cùng khắp (Biến) tất cả các pháp (phần này trong kinh văn gọi là Chí chơn đẳng chánh giác.)

4) Minh Hạnh Túc (S.Vidyà-carana-sampanna), bậc trí tuệphước đức vẹn toàn. Minh là trí tuệ (Thiên nhãn minh, Túc mạng minh, Lậu tận minh). Hạnh là phước đức, tức các hạnh nghiệp đều toàn thiện, viên mãn. Túc nghĩa là đầy đủ, vẹn toàn (Kinh văn là Minh hạnh thành.)

5) Thiện Thệ (S.Sugata), bậc “khéo léo vượt qua mọi chướng ngại và ra đi một cách tốt đẹp”, nghĩa là sau khi chứng đạo dùng Nhất thiết trí hóa độ chúng sanh, thực hành Bát thánh đạo rồi an trú Niết-bàn.

6) Thế Gian Giải (S.Loka-vid), bậc thấu hiểu và rõ biết (Giải) tất cả từ quá khứ, hiện tại cho đến vị lai (Thế) ở trong mười phương thế giới (Gian).

7) Vô Thượng Sĩ (S.Anuttara), bậc tối tôn tối thượng, không ai có thể hơn được.

8) Điều Ngự Trượng Phu (S. Purusa-damya-sàrathi), bậc có khả năng dùng các phương tiện thiện xảo để điều phục, nhiếp hóa, dẫn dắt (Điều Ngự) người tu hành (Trượng Phu) khiến họ thành tựu giải thoát, chứng đắc Niết-bàn (Trong phần kinh văn là Đạo pháp ngự.)

9) Thiên Nhơn Sư (S.Sàstà deva-manusyànàm), bậc thầy của trời và người.

10) Phật-Thế Tôn (S.Buddha-Bhagavat), bậc giác ngộ, tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn và được thế gian đều tôn kính.

[2] Là năm phần hương dụ cho 5 phần Pháp thân (Phật Quang Từ Điển):

1) Giới thân (Sila-skandha); còn gọi là Giới uẩn, Giới chúng, Giới phẩm, tức là thân ngữ nghiệp vô lậu. Khi Thành tựu giới thì ba nghiệp của thân miệng ý đều thanh tịnh.

2) Định hương (Samàdhi-skandha); còn gọi Định uẩn, Định chúng, Định phẩm. Tức là 3 Tam-muội: Không, Vô nguyện, Vô tướng. Thành tựu Định nghĩa là thể nhập vào trạng thái 3 không, xả ly tất cả sự chấp thủ vọng niệm.

3) Tuệ thân (Prajnà-skandha); còn gọi là Huệ uẩn, Huệ phẩm, tức chánh kiến, chánh tri. Thành tựu Tuệ là đạt được sự thấy và hiểu biết đúng đắn; thông đạt tất cả pháp tánh

4) Giải thoát thân (Vimukti-skandha); còn gọi: Giải thoát uẩn, Giải thoát chúng, Giải thoát phẩm, là thắng giải tương ưng với chánh tri kiến. Thành tựu Giải thoátthành tựu tự thể của Như lai, xa lìa những sự trói buộc, giải thoát tất cả những sự trói buộc.

5) Giải thoát tri kiến (Vimukti-jnàna-darsana-skandha); còn gọi: Giải thoát sở kiến thân, Giải thoát tri kiến uẩn, Giải thoát tri kiến chúng, Giải thoát tri kiến phẩm. Thành tựu Giải thoát tri kiến chứng đạt tận trí, vô sanh, chứng biết tự thể xưa nay vô nhiễm, thật sự giải thoát.

[3] Đã thành A la hán thì được gọi là A la hán quả, đang tu A la hán thì được gọi là A la hán hướng, đã thành A na hàm thì được gọi là A na hàm quả, đang tu A na hàm thì được gọi là A na hàm hướng, đã thành Tư đà hàm thì được gọi là Tư đà hàm quả, đang tu Tư đà hàm thì được gọi là Tư đà hàm hướng, đã thành Tu đà hoàn thì được gọi là Tu đà hoàn quả, đang tu Tu đà hoàn thì được gọi là Tu đà hoàn hướng. Những bậc đã thành tựu bốn quả và đang tu bốn quả được gọi là tám bậc, chia làm bốn đôi gọi là tứ song bát bối (cattari purisayugani attha purisapuggala.)

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8300)
Đạo Phật trên ý nghĩa thiết yếu là “biện chứng giải thoát” hay là con đường gỉai thoát. Gỉai thoát khỏi khổ đau, sinh tử luân hồi.
(Xem: 7579)
Lâu nay mình đã sống trọn vẹn hết thời giờ chưa? Mình có để lãng phí thời giờ hay không? Và bằng cách nào để chúng ta sống một cách có ý nghĩa?
(Xem: 8612)
Hai chữ “Sinh Tử” đã khiến cho biết bao nhiêu người bất kể trí ngu giàu nghèo từ xưa đến nay đều phải lưu ý tới và khổ tâm vì nó.
(Xem: 7153)
Những gì có mang một tính chất riêng (svalakṣaṇa) đều được gọi là pháp (dharma): “svalakṣaṇadhāraṇād dharmaḥ”[1], tức do duy trì yếu tính của tự thân nên nó được gọi là Pháp.
(Xem: 8427)
Đối với Phật giáo mỗi người làm chủ lấy vận mạng của chính mình. Mỗi chúng ta đều mang trong mình một tiềm năng ngang nhau...
(Xem: 7723)
Đạt được cơ sở con người, cơ sở đó giống như một cái bình thật quý và hiếm hoi, giúp ta có thể giải thoát tất cả kẻ khác và cho cả chính ta
(Xem: 7013)
Như Lai hay Như Khứ là dịch nghĩa của từ Sanskrit: Tathāgata, được ghép từ hai yếu tố là tathā và Agata hoặc tathā và gata.
(Xem: 8230)
TA THƯỜNG NGHE NÓI rằng thật khó tìm được một thân người. Không phải là bất kỳ thân người nào mà là một thân người “quý báu” có nối kết với Giáo pháp – đó chính là điều khó đạt được.
(Xem: 9247)
Đọc tiểu thuyết kiếm hiệp của Kim Dung, người ta thường thấy câu thành ngữ “Buông đao đồ tể, lập tức thành Phật”.
(Xem: 7945)
Thuật từ Uẩn 蘊, ngữ nguyên Sanskrit là skandha, Pāli là khandha, Hán phiên âm, Tắc-kiện-đà 塞健陀, dịch là tích tụ, loại biệt, tức là năm loại khác nhau về các pháp hữu vi.
(Xem: 8433)
“Bạn có nghĩ rằng hôm nay chỉ là một ngày nữa của đời mình chăng? Thật ra hôm nay không phải chỉ là ‘một ngày nữa’ thôi, mà nó là một ngày được riêng dâng tặng cho bạn.
(Xem: 8078)
Phật dạy chúng ta hãy đem chánh niệm vào tất cả những việc mình làm trong đời sống hằng ngày. Ngài không bỏ ra ngoài bất cứ một việc làm nhỏ nhặt nào hết...
(Xem: 9637)
Những lời khuyên thiết thực, thâm sâutrong sáng của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma, chỉ cho ta cách tu tập giúp biến cải tâm linh ta, biến ta thành một con người cao cả hơn...
(Xem: 6790)
Trong cuộc sống, chúng ta thường dùng lời nói để trao đổi thông tin, để diễn đạt ý tưởng hoặc để bày tỏ, biểu lộ tâm tư tình cảm của mình…
(Xem: 6827)
Đức Phậtlòng từ bi mà thương xót chúng sinh, nên đã chỉ ra nỗi khổ, niềm đau, chỉ dạy phương pháp dứt khổ, để chúng ta cùng được sống trong bình yên, hạnh phúc.
(Xem: 7049)
Hộ trì các căn (Indriyesu guttadvàro) hay phòng hộ các giác quan (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) là một trong các biện pháp tu tập căn bản của đạo Phật.
(Xem: 6682)
Tăng quan luận (僧官論) là một trong những bộ luận do ngài Thích Ngạn Tông (557-610)1 trước tác, nhằm thuyết minh và lý giải các chức vụ do chư Tăng đảm nhiệm (廣明僧職)
(Xem: 7214)
Chưa có tài liệu nào về niên đại của đức Phật lịch sử, vị sáng lập đạo Phật, được truyền thừa nhất quán trong các tông phái chính của Phật giáo cũng như được các học giả cùng công nhận.
(Xem: 6854)
Kinh Hoa Nghiêm, như các kinh điển Đại thừa, lấy tánh Không làm nền tảng. Tánh Không trong kinh này là Pháp thân của Phật bổn nguyên Tỳ-lô-giá-na, và toàn thể vũ trụhiện thân của Ngài.
(Xem: 16259)
Sau khi Ta diệt độ nhập Niết-Bàn, hãy tự thắp đuốc lên mà đi; thắp lên với chính pháp, đừng thắp lên với pháp nào khác; hãy nương tựa với chính mình, đừng nương tựa với một pháp nào khác
(Xem: 7554)
Con đường Bồ tátcon đường lý tưởng nổi tiếng của Phật giáo Đại thừa – không phải là pháp tu để thành thánh, thành tiên, mà là một lối sống ai cũng có thể ước mong thành tựu được.
(Xem: 6501)
Sau kiến đạo, các pháp hữu lậu không thuộc kiến sở đoạn (darśana-prahātavya). Tức các pháp hữu lậu còn lại, trừ kiến chấp ô nhiễm khởi lên do tà phân biệt.
(Xem: 6966)
Đa số người xưng là Phật tử mà không biết rõ đường lối tu hành, ai bày sao làm vậy, trở thành mê tín sai lầm, khiến người đời phê bình đạo Phật là huyền hoặc, là vô ích.
(Xem: 7290)
Tánh "không" (S. 'Suunyataa, P. Su~n~nataa) là một trong các học thuyết quan trọng bậc nhất của Phật giáo và cũng là học thuyết bị người khác đạo hiểu sai lầm nhiều nhất.
(Xem: 6372)
Tánh Khôngbản tánh của tất cả mọi sự vật, mọi hiện tượng, mọi hành động của thân khẩu ý, nên ở đâu trong không gian nào thời gian nào chúng ta cũng có thể nhận ra nó...
(Xem: 6743)
Nói đến Bát-nhã (Trí huệ), các luận thường phân làm ba: Bát-nhã văn tự, Bát-nhã quán chiếu, và Bát-nhã thật tướng.
(Xem: 5594)
Người Phật tử chân chính chớ nên dòm ngó lỗi người, chúng ta chỉ nên nhìn lại hành động của mình, xem đã làm được điều gì tốt đẹp hay chưa.
(Xem: 8920)
"Vậy nên này Ananda, hãy tự mình là ngọn đèn cho chính mình (atta-dipà viharatha), hãy tự mình y tựa chính mình (attàsaranà) chớ y tựa một cái gì khác.
(Xem: 7404)
Tổ Quy Sơn dạy: "Nếu mình chưa là bậc thượng lưu, vượt thẳng lên thềm vô thượng giác thì hãy để tâm vào giáo pháp, ôn tầm kinh điển, rút ra nghĩa lý tinh hoa, truyền bá tuyên dương tiếp dẫn hậu lai, trả ơn đức Phật".
(Xem: 22336)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 7796)
Về cơ bản, lý duyên khởi giải thoát mô tả tâm lý của thiền, nghĩa là, những gì xảy ra trong tiến trình hành thiền được hành giả trải nghiệm từ lúc đầu cho đến lúc cuối.
(Xem: 6862)
Bài Pháp này nhắc nhở các bạn về một số điều Phật dạy, như một cách để sách tấn, khuyến khích các bạn chăm chỉ thực hành đúng theo lời Phật dạy.
(Xem: 15049)
Pháp Hoakinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạp, ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duysuy luận của con người bình thường.
(Xem: 8626)
Sự hình thành và phát triển tâm lý học Phật giáo là một quá trình vừa diễn dịch vừa xây dựng kéo dài suốt hàng thế kỷ trong lịch sử truyền thừa Phật giáo kể từ thời Đức Phật.
(Xem: 13113)
Giáo lý Duyên khởi (Cái này sinh, nên cái kia sinh, cái này diệt nên cái kia diệt) là nguyên tắc chung giải thích về sự hình thành hay hủy diệt của các pháp.
(Xem: 18983)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 6020)
Phật Thích Ca sau 49 năm thuyết pháp cũng bảo những lời ta nói là thuyết lại lời cổ Phật. Khổng Tử thì nhắn nhủ hậu thế: ông chỉ truyền lời Thánh hiền không thêm bớt không sáng tạo...
(Xem: 6256)
Ở đời cái gì cũng vậy, không phải ngẫu nhiên có được, mà đòi hỏi mỗi con người chúng ta phải tự nỗ lực, tự tầm cầu, tự suy tư để tìm đến con đường giải thoát cho tự thân và tha nhân.
(Xem: 7023)
Chân lý tương đối là những sự thật còn nằm trong đối đãi đối trị nhau. Những sự đối đãi ấy là...
(Xem: 7335)
Sanh tử sự đại là một đề mục lớn của Thiền Tông, và sanh tử luân hồi là một chủ đề phổ thông của Phật Giáo. Nói đến sanh tử luân hồi thì người Phật tử nào cũng nghĩ đến việc thoát ly sanh tử luân hồi.
(Xem: 8387)
Nghiệp báo đóng một vai trò rất quan trọng trong giáo lý nhà Phật.
(Xem: 5682)
Người ta thường tìm đủ mọi cách để gán một nhãn hiệu nào đó lên các lời giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 5883)
Đã lâu, đa số thanh niên quan niệm giải thoát của đạo Phật là siêu hình huyền hoặc đâu đâu, để dành riêng cho những người chán thực tại cầu vào chốn hư vô tịch diệt.
(Xem: 5520)
Sự hiện hữu của mỗi chúng ta hiện giờ và ở đây là do, từ, bởi, nhiều nguyên nhânđiều kiện.
(Xem: 6508)
Đồng Mông Chỉ Quán là một trước tác rất hàm xúc và có hệ thống, nếu hành giả cố gắng thực hành theo "Pháp yếu tọa Thiền tu tập Chỉ Quán" này chắc chắn sẽ đạt được kết quả lớn lao.
(Xem: 5939)
Đạo Phật chủ trương giác ngộ mang ánh sáng trí tuệ soi rọi cho thế gian. Mọi lẽ thật đều hiện bày dưới ánh sáng giác ngộ,
(Xem: 7526)
Mọi chúng sinh dù là người hay là thú , dù giầu hay nghèo, già hay trẻ, không ai là có thể tồn tại lâu dài mãi mãi trong một tình trạng , mọi thứ đều sẽ phải thay đổi và xa rời đi.
(Xem: 5828)
Bốn dấu ấn tiếng Phạn gọi là caturlaksana, tiếng Pa-li là caturlakkhana, hoặc còn gọi là Dharma mudra.
(Xem: 6743)
Đại thừa (Mahāyāna) phát triển một nhận thức mới về bản chất lịch sử của Đức Phật Śākyamuni.
(Xem: 6800)
Khi chúng ta tự gọi mình là những Phật tử, có nghĩa là chúng ta là những người đi theo Phật.
(Xem: 5740)
Phật Giáo là một tôn giáo xây dựng trên trí thông minh, khoa học và sự hiểu biết. Mục đích của tôn giáo ấy là để giúp loại trừ khổ đau và các nguyên nhân mang lại khổ đau.
(Xem: 6236)
Chúng ta học Phật, Phật dạy chúng ta hồi đầu, quy y tự tính giác. Tự tính giác tức là Phật tính. Phát Bồ đề tâm, tu Bồ Tát hạnh...
(Xem: 5536)
Phật pháp là những điều đức Phật chứng kiến được sau khi giác ngộ, đem chỗ chứng kiến ấy nói lại để cho mọi người hiểu biết để dứt sạch mê lầmgiác ngộ
(Xem: 7153)
Ý niệm về nghiệp hữu lý trên nhiều phương diện, nhưng một số người đã hiểu lầm về nghiệp.
(Xem: 6110)
Khả năng thích ứng tuyệt vời của Phật giáo đã giúp Phật giáo hội nhập với các nền văn hoá khác.
(Xem: 7943)
Bụt là thầy chỉ đạo Bậc tỉnh thức vẹn toàn Tướng tốt đoan trang Trí và bi viên mãn.
(Xem: 6108)
Người có tuệ giác biết nhìn thẳng vào sự thậtchấp nhận sự thật ấy dù đau thương rồi nỗ lực chuyển hóa, thăng hoa.
(Xem: 7125)
Đạo Phậtđạo từ bi và hành động thiết thực của nó mang đến sự an vui, bình yên cho tất cả chúng sinh.
(Xem: 6968)
Ai có thể hàng phục được mười tám giới: sáu căn, sáu trần, và sáu thức, khiến chúng đừng tạo phản thì người đó chính là Bồ Tát.
(Xem: 7021)
Trong Phật giáo, các từ ngữ "cầu nguyện," "cầu xin" hay "ước nguyện" được hiểu đồng nghĩa với thuật ngữ "pràrthanà" (Sanskrit) hay "patthanà" (Pali).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant