Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phật Tử Chân Chính

08 Tháng Năm 201509:20(Xem: 6829)
Phật Tử Chân Chính
PHẬT TỬ CHÂN CHÍNH

Đại Đức Shangpa Rinpoche


PHẬT TỬ CHÂN CHÍNHKhi chúng ta tự gọi mình là những Phật tử, có nghĩa là chúng ta là những người đi theo Phật. Khía cạnh quan trọng nhất của việc làm một Phật tử đó là chúng ta đi theo con đường của Phật và luôn luôn suy nghĩ như một người con Phật. Phật [Buddha] là một từ trong tiếng Phạn. Từ này dùng để chỉ người đã tỉnh thức thoát khỏi tâm si mê, người đã thành tựu về hiểu biếttrí tuệ. Từ này trong tiếng Tây Tạng gọi là ‘Sangye’.

Mỗi Phật tử đều có mục đíchđạt được trạng thái giác ngộ của Phật. Phật quả này là sự phát triển và thành tựu khả năng của mỗi người trong việc giải thoát tất cả chúng sinh hữu tình khỏi đau khổ.

Những người chưa đạt được Phật quả có nhiều cảm xúc rất mâu thuẫn, ví dụ tham muốn, căm giận, ghen tỵ, mê muộivô số xúc tình vô minh khác. Tất cả những sự vô minh này đều xuất phát từ si mê; đó là trạng thái không có trí tuệ và không nhận biết được bản chất thật sự của tâm. Sự si mê này là nguyên nhân gây ra tất cả những rắc rối phức tạphỗn loạn trong cõi luân hồi. Nhưng vô minh này không phải là vĩnh cửu. Nó có thể bị loại bỏ bằng cách áp dụng những phương cách của trí tuệ. Bằng cách chuyển hóa vô minh thành trí tuệ, người ta sẽ có khả năng thấu hiểu được sự thật. Điều này sẽ dần dần dẫn ta đến trạng thái của giác ngộ. Do vậy, là một người Phật tử, mục đích quan trọng nhất là phải phát triển trí tuệthông hiểu những giáo lý căn bản của Phật pháp, như Tứ diệu đế, Bát chánh đạo; và sau đó thực hành con đường của Bồ Tát và những phương pháp Kim Cương thừa. Hiểu được điều này sẽ giúp ta phát triển được trí tuệ.

Bên cạnh việc thấm nhuần hiểu biết về Pháp, áp dụng những giáo lý này cũng vô cùng quan trọng. Bất kỳ Pháp nào mà tâm ta lĩnh hội được, ta đều phải áp dụng. Ví dụ, tất cả mọi người đều biết rằng mình cần phải hào phóng. Nhưng hiểu về điều này là chưa đủ. Ta cần phải thực hiện điều mình đã hiểu ấy và thực tập bố thí mọi lúc.

Tương tự như vậy, các phẩm hạnh cũng quan trọng như vậy và ta cần rèn luyện thực hành. Chỉ bằng cách áp dụng những giáo pháp vào thực tế, ta mới có thể đạt được đến trạng thái của tỉnh thức.

Chúng ta càng hiểu về Pháp, ta càng hiểu ở đâu và khi nào thì nên áp dụng. Mỗi khoảnh khắc trong bất kỳ tình huống nào của đời sống hàng ngày của ta đều là cơ hội để thực hành, để ta phát triển về mặt tâm linh. Chúng ta trải qua những tình huống càng khó khăn, thì đó là cơ hội càng lớn để ta thành công trong việc thực hành Pháp.

Ví dụ, ta có thể có một kẻ thù, người ấy đã gây ra cho ta vô số những điều không như ý, căm hận và nguyền rủa ta. Nhìn chung, đây là một tình huống tồi tệ, không ai muốn mình bị ghét bỏ và nguyền rủa, điều này gây ra rất nhiều đau khổ. Tuy nhiên, nhìn ở khía cạnh thực hành tâm linh, đây là một thời điểm tốt để thử thách ta, nó mang lại cho ta cơ hội để phát triển và củng cố thái độ tích cực của ta đối với Pháp. Sự nhẫn nhục là một giáo lý quan trọng trong Phật pháp và ta có thể thực hành điều này trong mọi tình huống. Đặc biệt là khi ta đối mặt với kẻ thù của mình, ta cần phải kiên nhẫnkhoan dung. Nếu ta có thể áp dụng được những nguyên tắc này, ta sẽ thành công trong việc thực hành pháp.

Đau khổcon đường dẫn tới hạnh phúc. Về cơ bản, ta trải qua càng nhiều khó khăn, thì kết quả mà ta đạt được càng lớn, cũng giống như ta phải làm việc chăm chỉ để đạt được những kết quả tốt. Mặc dù ta có thể gặp phải vô số thử thách, chướng ngạicản trở, nhưng đó lại là con đường dể dẫn tới thành công. Pháp rất quý giá, nó giúp ta vượt qua được tất cả những thử thách, không kể đó là thử thách thực tế hay về tinh thần. Pháp thực sự là bảo bối duy nhất dẫn ta tới thành công.

Do đó, là một Phật tử không có nghĩa là lúc nào cũng có mặt ở trong chùa. Trong thực tế, một Phật tử thuần thành có thể ở bất kỳ chỗ nào, ở nơi làm việc, ở trên phố hay trong nhà hàng. Nói cách khác, khi nào ta vẫn còn áp dụngthực hiện Pháp mọi lúc, thì ta là một Phật tửchân chính. Một người tận dụng được tất cả những thời điểm trong những trải nghiệm của họ để phát triển sự thực hành tâm linh của mình, đó là Phật tử chân chính. Những người không thể áp dụng Pháp một cách hiệu quả nhưng luôn luôn ở trong chùa, đó chỉ gọi là những Phật tử bề ngoài. Những người rèn luyệnthực tập Pháp thường xuyên một cách đúng đắn, và đồng thời, cả đi chùa, đó là người Phật tử rất tích cực và là một hành giả.

Những khi vô minh xảy đến, người hành giả có thể nhận rangay lập tức. Sau khi nhận thức được nó là vô minh, ta sẽ áp dụng trí huệ để thực hiện những pháp tịnh hóa vô minhthoát khỏi những rắc rối ấy. Như vậy, bất cứ những cảm xúcvô minh nào xuất hiện, ta phải coi đó là một thử tháchvượt qua nó, đó là phương pháp đúng đắn nhất mà ta phải làm theo.

Tuy nhiên, việc thực hành Pháp không dễ như ta nghĩ. Việc nhận ra khi vô minh xuất hiện có thể trở nên rất khó khăn. Thậm chí khi ta đã nhận ra nó, việc nhớ lại và dùng thuốc giải độc cũng rất khó để thực hiện một cách hiệu quả. Sức mạnh của vô minh có thể là vô cùng lớn so với phương thuốc để giải trừ nó, ta có thể không có khả năng để xóa bỏ vô minh một cách nhanh chóng. Thật ra, tất cả chúng ta đều muốn tịnh hóa một số lượng lớn những si mê của mình nhưng vô minh thì quá nhiều nên ta không thể vượt qua chúng tất cả cùng một lúc. Sự nỗ lực kiên địnhtinh tấn sẽ giúp ta đẩy lùi chúng. Cuối cùng, nỗ lực của chúng ta sẽ trở thành một thói quen tích cực và một ngày nào đó ta có thể thành công.

Ngày xưa có một thương gia Tây Tạng tên là Norbu Zangpo, người ấy đã mất tất cả tiền trong việc kinh doanh. Vì sự thất bại trong làm ăn, ông cảm thấy rất thất vọng, nản lòng và muốn rút lui. Rất buồn chán, ông ta nằm xuống đất và đã nhìn thấy một chú kiến đang cố trèo qua một cọng cỏ. Được nửa đường, nó lại ngã xuống. Nó lại cố trèo lần nữa và cứ như vậy, ông ta đếm được 79 lần chú kiến ngã. Nhưng lần cuối cùng là lần thứ 80, chú kiến đã trèo lên được đỉnh của ngọn cỏ. Đột nhiên, ông ta nhận ra nếu không có sự nỗ lực bền bỉ, thì không thể thành công được trong bất kỳ điều gì. Từ đó về sau, ông ta đã cố gắng rất nhiều và làm ăn chăm chỉ, ông đã thành công. Ông trở thành thương gia giàu có nhất và thành công nhất ở Tây Tạng. Con côn trùng nhỏ bé đã trở thành động lực cố gắng của ông.

Câu chuyện nhắc ta phải nỗ lực không ngừng và không sợ thất bại. Trong quá trình ấy, dù ta không đạt được thành tựu từ lúc đầu, ta cũng cần phải thực hành đến tận khi đạt được thành tựu. Chúng ta thiếu sự tỉnh thức và sự nỗ lực lâu dài. Ta mong chờ một kết quả ngay lập tức mà không cần cố gắng nhiều. Điều đó là không thể. Pháp là sự rèn luyện về tinh thần mà không thể do ai khác mang đến hay chuyển sang cho ta được. Điều này rất đơn giản nếu ta biết cách chuyển Pháp thành hành động, thành thuốc giải để tịnh hóa vô minh. Nếu Pháp trở thành thứ gì đó khiến người ta tăng thêm danh vọng hay vô minh, thì nó sẽ phát triển thành một mặt rất tiêu cực đối với chúng ta. Nếu Pháp được thực hành một cách đúng đắn, ta có thể giảm bớt được vô minh như lòng căm giận, si mê, tham muốn và tất cả những xúc tình khác.

Về cơ bản, thông qua tất cả những quá trình này, ta sẽ có khả năng phân biệt được một người là Phật tử chân chính hay không. Một Phật tử thật sự là người không chỉ hiểu về giáo lý mà còn thực hành chúng và trải nghiệm được những kết quả mà điều đó mang lại. Không phải là một Phật tử chân chính có nghĩa là ta không áp dụng được giáo pháp vào thực tế và không bao giờ thay đổi được thái độ của mình trên con đường tâm linh. Thay vào đó, người ta tự hào về sự hiểu biết của mình về Pháp và nhìn xuống những người khác, điều này sẽ làm tăng những suy nghĩ tiêu cực của họ.

Việc lắng nghe giáo Pháp và suy ngẫm và thiền định, đó là tất cả những việc cần rèn luyện. Ta cần cố gắng hiểu được những giáo pháp của Phật, sau đó suy ngẫm và nghiên cứu về pháp. Sau khi đã tìm hiểu về logic của sự thật, ta phải áp dụngthực hiện tất cả những gì ta đã học và thiền định về việc đó. Với những phương pháp này, việc thực hành Pháp của ta sẽ trở nên có hiệu quả và ta sẽ có thể thành tựu giác ngộ.

Thiền định không có nghĩa là chỉ ngồi xuống và đặt hai tay vào nhau. Thiền định có thể được thực hiện bằng rất nhiều cách khác nhau như phát triển hạnh bố thí, nhẫn nhục và phẩm hạnh. Thực tế, tất cả những thực hành này đều liên quan đến thiền định, nó đòi hỏi hiểu biếttrí tuệ. Ví dụ, nếu một người đang nấu ăn và nói rằng anh ta đang thiền định, ta sẽ không tin bởi ta nghĩ rằng thiền định không phải là như vậy. Làm sao anh ta có thể thiền được khi đang nấu nướng? Tuy nhiên, nếu anh ta áp dụng những phẩm hạnh của trí tuệhiểu biết vào quá trình nấu nướng, thì anh ta thực sự đang thiền.

Trong Kim Cương thừa, ta có rất nhiều bài kinh, những nhạc cụ và rất nhiều loại ấn khác nhau v.v… Tất cả những điều ấy đều là một phần của thiền định. Thông qua những thiền định này và sự thực hành, ta có khả năng nhận ra được bản chất của tâm một cách hiệu quả hơn.

Kết lại, một Phật tử chân chính là người áp dụng những giáo lý của Phật ở trong tâm và trong cả cuộc sống hàng ngày. Bằng cách đó, ta sẽ tỉnh thức trong mọi suy nghĩ và hành động. Một khi ta đã có được hạnh đó, ta sẽ không còn mắc sai lầm và sẽ tiếp tục phát triển được những suy nghĩ tích cực cũng như công đứctrí tuệ. Khi ta đã có tất cả những hạnh đó, niềm hạnh phúc an lạc bên trong ta sẽ lớn lên và ta sẽ được hoàn toàn thỏa mãnthành tựu được tất cả những mục đích của cuộc đời.

Bài pháp được giảng tại Đạo tràng Karma Kagyud, Singapore vào ngày 3 tháng 5 năm 1995 trước ngày Phật đản.

Nguồn: http://www.dhagpo-kagyu.org/anglais/science-esprit/fondements/general/true-buddhist.htm

Việt dịch: Quỳnh Anh – Nhóm Thuận Duyên.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8330)
Đạo Phật trên ý nghĩa thiết yếu là “biện chứng giải thoát” hay là con đường gỉai thoát. Gỉai thoát khỏi khổ đau, sinh tử luân hồi.
(Xem: 7609)
Lâu nay mình đã sống trọn vẹn hết thời giờ chưa? Mình có để lãng phí thời giờ hay không? Và bằng cách nào để chúng ta sống một cách có ý nghĩa?
(Xem: 8641)
Hai chữ “Sinh Tử” đã khiến cho biết bao nhiêu người bất kể trí ngu giàu nghèo từ xưa đến nay đều phải lưu ý tới và khổ tâm vì nó.
(Xem: 7172)
Những gì có mang một tính chất riêng (svalakṣaṇa) đều được gọi là pháp (dharma): “svalakṣaṇadhāraṇād dharmaḥ”[1], tức do duy trì yếu tính của tự thân nên nó được gọi là Pháp.
(Xem: 8461)
Đối với Phật giáo mỗi người làm chủ lấy vận mạng của chính mình. Mỗi chúng ta đều mang trong mình một tiềm năng ngang nhau...
(Xem: 7750)
Đạt được cơ sở con người, cơ sở đó giống như một cái bình thật quý và hiếm hoi, giúp ta có thể giải thoát tất cả kẻ khác và cho cả chính ta
(Xem: 7028)
Như Lai hay Như Khứ là dịch nghĩa của từ Sanskrit: Tathāgata, được ghép từ hai yếu tố là tathā và Agata hoặc tathā và gata.
(Xem: 8242)
TA THƯỜNG NGHE NÓI rằng thật khó tìm được một thân người. Không phải là bất kỳ thân người nào mà là một thân người “quý báu” có nối kết với Giáo pháp – đó chính là điều khó đạt được.
(Xem: 9272)
Đọc tiểu thuyết kiếm hiệp của Kim Dung, người ta thường thấy câu thành ngữ “Buông đao đồ tể, lập tức thành Phật”.
(Xem: 7961)
Thuật từ Uẩn 蘊, ngữ nguyên Sanskrit là skandha, Pāli là khandha, Hán phiên âm, Tắc-kiện-đà 塞健陀, dịch là tích tụ, loại biệt, tức là năm loại khác nhau về các pháp hữu vi.
(Xem: 8441)
“Bạn có nghĩ rằng hôm nay chỉ là một ngày nữa của đời mình chăng? Thật ra hôm nay không phải chỉ là ‘một ngày nữa’ thôi, mà nó là một ngày được riêng dâng tặng cho bạn.
(Xem: 8089)
Phật dạy chúng ta hãy đem chánh niệm vào tất cả những việc mình làm trong đời sống hằng ngày. Ngài không bỏ ra ngoài bất cứ một việc làm nhỏ nhặt nào hết...
(Xem: 9653)
Những lời khuyên thiết thực, thâm sâutrong sáng của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma, chỉ cho ta cách tu tập giúp biến cải tâm linh ta, biến ta thành một con người cao cả hơn...
(Xem: 6805)
Trong cuộc sống, chúng ta thường dùng lời nói để trao đổi thông tin, để diễn đạt ý tưởng hoặc để bày tỏ, biểu lộ tâm tư tình cảm của mình…
(Xem: 6845)
Đức Phậtlòng từ bi mà thương xót chúng sinh, nên đã chỉ ra nỗi khổ, niềm đau, chỉ dạy phương pháp dứt khổ, để chúng ta cùng được sống trong bình yên, hạnh phúc.
(Xem: 7065)
Hộ trì các căn (Indriyesu guttadvàro) hay phòng hộ các giác quan (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) là một trong các biện pháp tu tập căn bản của đạo Phật.
(Xem: 6698)
Tăng quan luận (僧官論) là một trong những bộ luận do ngài Thích Ngạn Tông (557-610)1 trước tác, nhằm thuyết minh và lý giải các chức vụ do chư Tăng đảm nhiệm (廣明僧職)
(Xem: 7228)
Chưa có tài liệu nào về niên đại của đức Phật lịch sử, vị sáng lập đạo Phật, được truyền thừa nhất quán trong các tông phái chính của Phật giáo cũng như được các học giả cùng công nhận.
(Xem: 6874)
Kinh Hoa Nghiêm, như các kinh điển Đại thừa, lấy tánh Không làm nền tảng. Tánh Không trong kinh này là Pháp thân của Phật bổn nguyên Tỳ-lô-giá-na, và toàn thể vũ trụhiện thân của Ngài.
(Xem: 16336)
Sau khi Ta diệt độ nhập Niết-Bàn, hãy tự thắp đuốc lên mà đi; thắp lên với chính pháp, đừng thắp lên với pháp nào khác; hãy nương tựa với chính mình, đừng nương tựa với một pháp nào khác
(Xem: 7575)
Con đường Bồ tátcon đường lý tưởng nổi tiếng của Phật giáo Đại thừa – không phải là pháp tu để thành thánh, thành tiên, mà là một lối sống ai cũng có thể ước mong thành tựu được.
(Xem: 6515)
Sau kiến đạo, các pháp hữu lậu không thuộc kiến sở đoạn (darśana-prahātavya). Tức các pháp hữu lậu còn lại, trừ kiến chấp ô nhiễm khởi lên do tà phân biệt.
(Xem: 6973)
Đa số người xưng là Phật tử mà không biết rõ đường lối tu hành, ai bày sao làm vậy, trở thành mê tín sai lầm, khiến người đời phê bình đạo Phật là huyền hoặc, là vô ích.
(Xem: 7302)
Tánh "không" (S. 'Suunyataa, P. Su~n~nataa) là một trong các học thuyết quan trọng bậc nhất của Phật giáo và cũng là học thuyết bị người khác đạo hiểu sai lầm nhiều nhất.
(Xem: 6379)
Tánh Khôngbản tánh của tất cả mọi sự vật, mọi hiện tượng, mọi hành động của thân khẩu ý, nên ở đâu trong không gian nào thời gian nào chúng ta cũng có thể nhận ra nó...
(Xem: 6749)
Nói đến Bát-nhã (Trí huệ), các luận thường phân làm ba: Bát-nhã văn tự, Bát-nhã quán chiếu, và Bát-nhã thật tướng.
(Xem: 5610)
Người Phật tử chân chính chớ nên dòm ngó lỗi người, chúng ta chỉ nên nhìn lại hành động của mình, xem đã làm được điều gì tốt đẹp hay chưa.
(Xem: 8943)
"Vậy nên này Ananda, hãy tự mình là ngọn đèn cho chính mình (atta-dipà viharatha), hãy tự mình y tựa chính mình (attàsaranà) chớ y tựa một cái gì khác.
(Xem: 7427)
Tổ Quy Sơn dạy: "Nếu mình chưa là bậc thượng lưu, vượt thẳng lên thềm vô thượng giác thì hãy để tâm vào giáo pháp, ôn tầm kinh điển, rút ra nghĩa lý tinh hoa, truyền bá tuyên dương tiếp dẫn hậu lai, trả ơn đức Phật".
(Xem: 22437)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 7811)
Về cơ bản, lý duyên khởi giải thoát mô tả tâm lý của thiền, nghĩa là, những gì xảy ra trong tiến trình hành thiền được hành giả trải nghiệm từ lúc đầu cho đến lúc cuối.
(Xem: 6871)
Bài Pháp này nhắc nhở các bạn về một số điều Phật dạy, như một cách để sách tấn, khuyến khích các bạn chăm chỉ thực hành đúng theo lời Phật dạy.
(Xem: 15078)
Pháp Hoakinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạp, ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duysuy luận của con người bình thường.
(Xem: 8658)
Sự hình thành và phát triển tâm lý học Phật giáo là một quá trình vừa diễn dịch vừa xây dựng kéo dài suốt hàng thế kỷ trong lịch sử truyền thừa Phật giáo kể từ thời Đức Phật.
(Xem: 13135)
Giáo lý Duyên khởi (Cái này sinh, nên cái kia sinh, cái này diệt nên cái kia diệt) là nguyên tắc chung giải thích về sự hình thành hay hủy diệt của các pháp.
(Xem: 19076)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 6028)
Phật Thích Ca sau 49 năm thuyết pháp cũng bảo những lời ta nói là thuyết lại lời cổ Phật. Khổng Tử thì nhắn nhủ hậu thế: ông chỉ truyền lời Thánh hiền không thêm bớt không sáng tạo...
(Xem: 6271)
Ở đời cái gì cũng vậy, không phải ngẫu nhiên có được, mà đòi hỏi mỗi con người chúng ta phải tự nỗ lực, tự tầm cầu, tự suy tư để tìm đến con đường giải thoát cho tự thân và tha nhân.
(Xem: 7043)
Chân lý tương đối là những sự thật còn nằm trong đối đãi đối trị nhau. Những sự đối đãi ấy là...
(Xem: 7362)
Sanh tử sự đại là một đề mục lớn của Thiền Tông, và sanh tử luân hồi là một chủ đề phổ thông của Phật Giáo. Nói đến sanh tử luân hồi thì người Phật tử nào cũng nghĩ đến việc thoát ly sanh tử luân hồi.
(Xem: 8406)
Nghiệp báo đóng một vai trò rất quan trọng trong giáo lý nhà Phật.
(Xem: 5702)
Người ta thường tìm đủ mọi cách để gán một nhãn hiệu nào đó lên các lời giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 5893)
Đã lâu, đa số thanh niên quan niệm giải thoát của đạo Phật là siêu hình huyền hoặc đâu đâu, để dành riêng cho những người chán thực tại cầu vào chốn hư vô tịch diệt.
(Xem: 5530)
Sự hiện hữu của mỗi chúng ta hiện giờ và ở đây là do, từ, bởi, nhiều nguyên nhânđiều kiện.
(Xem: 6524)
Đồng Mông Chỉ Quán là một trước tác rất hàm xúc và có hệ thống, nếu hành giả cố gắng thực hành theo "Pháp yếu tọa Thiền tu tập Chỉ Quán" này chắc chắn sẽ đạt được kết quả lớn lao.
(Xem: 5966)
Đạo Phật chủ trương giác ngộ mang ánh sáng trí tuệ soi rọi cho thế gian. Mọi lẽ thật đều hiện bày dưới ánh sáng giác ngộ,
(Xem: 7557)
Mọi chúng sinh dù là người hay là thú , dù giầu hay nghèo, già hay trẻ, không ai là có thể tồn tại lâu dài mãi mãi trong một tình trạng , mọi thứ đều sẽ phải thay đổi và xa rời đi.
(Xem: 5840)
Bốn dấu ấn tiếng Phạn gọi là caturlaksana, tiếng Pa-li là caturlakkhana, hoặc còn gọi là Dharma mudra.
(Xem: 6773)
Đại thừa (Mahāyāna) phát triển một nhận thức mới về bản chất lịch sử của Đức Phật Śākyamuni.
(Xem: 5762)
Phật Giáo là một tôn giáo xây dựng trên trí thông minh, khoa học và sự hiểu biết. Mục đích của tôn giáo ấy là để giúp loại trừ khổ đau và các nguyên nhân mang lại khổ đau.
(Xem: 6262)
Chúng ta học Phật, Phật dạy chúng ta hồi đầu, quy y tự tính giác. Tự tính giác tức là Phật tính. Phát Bồ đề tâm, tu Bồ Tát hạnh...
(Xem: 5549)
Phật pháp là những điều đức Phật chứng kiến được sau khi giác ngộ, đem chỗ chứng kiến ấy nói lại để cho mọi người hiểu biết để dứt sạch mê lầmgiác ngộ
(Xem: 7186)
Ý niệm về nghiệp hữu lý trên nhiều phương diện, nhưng một số người đã hiểu lầm về nghiệp.
(Xem: 6119)
Khả năng thích ứng tuyệt vời của Phật giáo đã giúp Phật giáo hội nhập với các nền văn hoá khác.
(Xem: 7968)
Bụt là thầy chỉ đạo Bậc tỉnh thức vẹn toàn Tướng tốt đoan trang Trí và bi viên mãn.
(Xem: 6128)
Người có tuệ giác biết nhìn thẳng vào sự thậtchấp nhận sự thật ấy dù đau thương rồi nỗ lực chuyển hóa, thăng hoa.
(Xem: 7153)
Đạo Phậtđạo từ bi và hành động thiết thực của nó mang đến sự an vui, bình yên cho tất cả chúng sinh.
(Xem: 6987)
Ai có thể hàng phục được mười tám giới: sáu căn, sáu trần, và sáu thức, khiến chúng đừng tạo phản thì người đó chính là Bồ Tát.
(Xem: 7036)
Trong Phật giáo, các từ ngữ "cầu nguyện," "cầu xin" hay "ước nguyện" được hiểu đồng nghĩa với thuật ngữ "pràrthanà" (Sanskrit) hay "patthanà" (Pali).
(Xem: 6809)
Hai chữ quy y có nghĩa là : quay về hay hồi chuyển. Y là nương tựa hoặc dựa vào, những hành vi hồi chuyển nương tựa hoặc quay đầu dựa dẩm tin tưởng.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant