Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương II: Khổ Hạnh

07 Tháng Mười Một 201000:00(Xem: 10335)
Chương II: Khổ Hạnh


Chương II: Khổ Hạnh

1. Vững Lòng Tin, Tu Khổ Hạnh
Nhân sinh có Bát Khổ--Sanh, Lão, Bệnh, Tử, Cầu bất đắc (khổ do mong cầu mà không được toại ý), Ái biệt ly (khổ vì phải xa lìa người mình yêu thương), Oán tằng hội (khổ vì phải gần gũi người mình oán ghét), và Ngũ-ấm xí thạnh (khổ do bị tấm thân Ngũ-ấm này khống chế).
Nếu bạn có nguyện lực tu Khổ-hạnh thì sau này sẽ có chút thần thông, sẽ biết được chuyện này chuyện nọ. Lúc ấy, tự mình cảm biết, tự mình làm chủ.
Nếu ai ai cũng có nguyện tu Khổ-hạnh, thì ai ai cũng có thể thành Phật, có thể được vãng sanh Tây Phương, được hóa sanh từ hoa sen. Các vị xuất gia thì tấm cà-sa chính là y áo Tây Phương đấy.
Cơm của kẻ xuất gia phải đạm bạc; coi đây chính là một Khổ-hạnh.
Tu hành cần phải chịu cực khổ. Càng chịu cực khổ thì càng có điều tâm đắc.

A. Khuyến Khích Tu Hành

Việc tu thì dựa vào sự thực hành của mình. Như uống nước, khi chưa uống thì bạn không biết mùi vị của nó; uống xong rồi mới biết mùi vị. Có thực hành mới đảm bảo được việc tu là chân thật.
Ði, đứng, nằm, ngồi--bạn phải dùng nó để thể hội Phật Pháp. Ngày tháng qua mau như tên bắn, chớ phóng dật!
"Một ngày đã qua,

Mạng cũng giảm dần,

Như cá cạn nước,

Thử hỏi gì vui?"
Mạng người vô thường--một hơi thở ra mà không vào lại, đời người tức hết! Bởi vậy, mau mau dũng mãnh, tinh tấn; chớ buông lung, lơi lỏng! Hãy coi việc niệm Phậtgấp rút, khẩn trương nhất!
Gia tài, của cải--mọi thứ ta chẳng đem theo khi sanh ra và cũng sẽ không mang theo lúc chết đi:

"Mọi thứ chẳng đem đặng,

Chỉ có nghiệp tùy thân."

Ðừng nên vì những thứ ở ngoài thân mình mà lãng phí quãng đời trân quý của mình. Phải mau, sớm tu hành!

B. Hạnh Nguyện

Thứ niệm thiện, nghiệp thiện mình đem theo (từ kiếp trước) thì ít, mà niệm ác thì nhiều. Bởi vậy, nay mình cần phải tu Khổ-hạnh để tiêu trừ nghiệp chướng. Vì thế, không nên tham ngủ, tham ăn...; phải quét cho sạch những thứ niệm xấu ấy! Có chánh niệm thì sẽ ít phiền não.
Khổ-hạnh là hạnh nguyện của lịch đại Tổ-Sư, của Ðức Phổ-Hiền, Văn-Thù, Quán-Âm, Ðịa-Tạng, các Ðại Bồ-tát. Ngày nay mình bắt chước, học theo gương các Ngài.
Khi Hòa-Thượng Hư-Vân đi ba bước một lạy triều sơn, Ngài một mình, một gậy, một bao ăn tạm qua ngày. Ngày nào lạy tới đâu thì tính tới đó; chuyện ngày mai thì để hôm sau tính. Tâm Ngài hoàn toàn không chấp trước vào đâu cả. Do đó Long, Thiên, Hộ-Pháp đều bảo vệ Ngài. Chúng ta thì chẳng có nguyện gì cả; nếu có nguyện thì việc gì cũng có thể làm tới nơi tới chốn!
Tu Khổ-hạnh là để nuôi dưỡng cái nguyện; xem bạn có hay không có nguyện. Kẻ ít nghiệp chướng thì mới có thể phát nguyện tu Khổ-hạnh. Chư Phật, Bồ-tát thành Ðạo cũng bởi do nhờ nguyện.
Hỏi: Song tôi không thể phát đặng nguyện Khổ-hạnh?
Ðáp: Nguyện không phải là "tôi muốn như thế này, thế nọ"; bởi như vậy thì vẫn còn cái "ngã", cái "tôi." Nguyện cần phải được phát một cách tự nhiên, và phải vì lợi ích của chúng sanh.
Như bản thân tôi, tôi có hề nói tôi ra sao, ra sao đâu? Ngày nay dù có thành tựu, tôi cũng không biết được!

2. Làm Sao Tu Khổ Hạnh

Thế nào là tu Khổ-hạnh? Tức là không so đo, tính toán mọi sự. Ðối với chuyện hằng ngày, chớ khởi tâm phân biệt.
Tu Khổ-hạnh tức là rửa sạch đầu óc, thay đổi chủng tử.
Khổ-hạnh không phải là việc giản dị, vì tu Khổ-hạnh là tu tâm.
Khổ-hạnh không phải là việc đơn giản, là cứ làm "bừa." Làm "bừa" không phải là biện pháp đúng. Nếu làm "bừa" thì dù có đến hết kiếp, rồi đầu thai trở lại cũng chẳng tới đâu!
Việc làm Khổ-hạnh không có nghĩa là làm cho nhiều.
Làm việc là để rèn luyện đầu óc suy nghĩ của bạn.
Làm việc thì phải thong thả; không được quá gấp gáp, hấp tấp.
Làm việc lâu ngày thì sẽ quen tay; khi ấy, bạn có thể khai trí huệ. Bấy giờ, công việc cần làm ra sao, bạn chỉ cần nhìn qua là tự nhiên biết ngay; không cần phải bóp trán, suy đi nghĩ lại mới biết.
Muốn tu Khổ-hạnh, cần phải rèn luyện xem mình có khả năng xả bỏ thân này hay chăng.
Thân này là giả tạm, nhất định sẽ bị hủy hoại; dù muốn cứu vãn cũng không có cách gì khôi phục.
"Xả bỏ thân này" là thế nào? Tức là ăn cơm đạm, mặc áo thô, đắp ba lớp cà-sa; chẳng kể gì đến ăn ngon, mặc đẹp!
Tôi dạy các bạn dựa vào Pháp-môn Niệm Phật mà tu.
Xưa, tôi ở trên núi tu hành thì chỉ tùy duyên. Hễ thức gì mọi chúng sanh ăn được thì loài người cũng có thể ăn được; đó gọi là đồ cúng dường tự nhiên của trời đất.
Nếu quá đói mà bạn cứ bướng bỉnh nhẫn chịu, thì thân thể sẽ hư hoại. Tu hành thì cần phải dụng tâm; không nên tu luyện những thứ cực đoan như không ăn uống như vậy.
Tôi tu đến ngày nay, lòng cảm thấy rằng nếu vạn nhất, chẳng may mà tu trật tu sai, thì thật nguy hiểm. Duy có môn Niệm Phật là tốt nhất.
Thế nào là "mặc áo thô, ăn cơm đạm"?
Không phải là chẳng ăn cơm đâu! Mà là ăn để no, chứ chẳng phải ăn cho ngon; mặc đủ ấm đủ che thân, chứ chẳng phải mặc cho đẹp. Ngủ vừa để có đủ tinh thần là tốt rồi; chớ ham ngủ. Ngủ nhiều rất dễ bị hôn trầm, dật dờ, nặng nề.
Nếu bạn bày đặt không ăn cơm, nhịn đói, thì sẽ khiến thân thể suy nhược, rồi khó an tâm tu đặng. Vậy là uổng phí cho bạn tới đây tu hành.
Tôi xưa kia đã từng làm qua việc ấy (nhịn đói); nay già rồi mới biết là sai lầm.
Rèn luyện ngủ ngồi là việc đòi hỏi thiện căn; nó không giản dị đâu. Ðừng nói tới phương pháp, cách thức luyện tập nó, làm sao đối trị, v.v... Nói ra, các bạn thêm chấp trước.
Ðây là việc mà kẻ có thiện căn có lòng muốn tu. Khi thực hành, hễ có chánh niệm thì tự nhiên sẽ thành công. Song le, nếu lầm đường trật bước, thì "thân người mất đi, khó phục hồi!" Ðã có rất nhiều người lầm lẫn rồi đấy!
Hỏi: Hòa-Thượng thường dạy chúng con học theo gương các lịch đại Tổ-Sư. Song le, nếu hoàn cảnh quá tốt đẹp: ăn, mặc, ở đều không thiếu thốn gì, thì làm sao học gương chư Tổ?
Ðáp: Các bạn không nên tham lam, đắm trước vào mọi thứ (ăn, mặc, ở); chỉ cần có thể sống qua ngày là tốt rồi.
Ðừng nói rằng có thức ăn cúng dường nhiều, rồi cắm đầu cắm cổ ăn, tự làm nô lệ cho cái miệng. Song le, cũng không được ăn quá ít, để bụng đói lả. Bạn phải lượng bụng mình mà ăn, ăn đủ vừa no là tốt rồi--chớ phân biệt đồ ngon đồ dở!
Hiện tại, thực phẩm đều có chất hóa học, hoặc đã bị nhiễm hóa chất, thuốc sát trùng... Khi thức ăn thật sự là không thể ăn được, hoặc là hư hoại rồi, thì chớ ăn. Cứ ăn bừa, ăn cho nhiều vào, thì có thể chết đấy!

3. Buông Xã Túi Da Thối Này!

Túi da thối này là để ta mượn mà tạm ở. Song le, cũng vì nó (thân này) mà ta tạo vô lượng vô biên nghiệp.
Chúng ta, ai cũng do mang nghiệp mà sinh ra, do đó đầy dẫy bệnh khổ. Bớt sát sanh, niệm Phật nhiều, thì mới có thể tiêu nghiệp đặng.
Khi thân thể có bệnh mà uống thuốc gì cũng chẳng lành, hãy niệm Phật thì bệnh sẽ lành, bởi Ðức Phật A-Di-Ðà là vị "Vô Thượng Y Vương" (vị vua thầy thuốc cao tuyệt nhất).
Con người phải chăng có thể trốn được kiếp số và bệnh khổ?
Thí dụ có kẻ bị đau tim; nếu y chuyên tâm niệm Phật thì bệnh tim chắc chắn sẽ lành. Nếu y tuy niệm Phật mà vẫn còn muốn đi bác sĩ kiểm tra bệnh tình, thì niệm Phật trả về niệm Phật, bệnh không thể lành nổi (thiếu thành tâm). Nếu y có thể chuyên tâm trì niệm Phật hiệu thì bệnh sẽ lành, mà chính y cũng không hay biết nữa!
Thân thể này giống như cái nhà; chắc chắn sẽ hư sụp. Lúc ấy dù có sửa chữa đến cách nào nó cũng sụp. Do đó chúng ta phải buông bỏ sự chấp trước vào thân thể giả dối này; đừng nên quá chăm sóc, lo lắng cho nó.
Xét cho cùng, thân này là thứ huyễn hóa; song le, chúng ta phải khéo léo lợi dụng nó để tu hành.
Không nên quá quý tiếc thân này. Khi sanh bệnh, chớ quá quan tâm; vì đó là một thứ thử thách. Quá quan tâm thân này nên mới bị thử thách.
Khi bệnh, bạn phải càng thể hội sự vô thường của đời người. Khó ai tránh nổi sanh, già, bệnh, chết, và khổ; do đó, càng phải nỗ lực, tăng sức tu hành!

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31293)
Đức Phật gọi là bực người tự nhiên, đem Nhất-Thiết-Chủng-Trí biết tất cả tự-tướng của các pháp sai khác; lìa tất cả điều chẳng lành; nhóm tất cả đìều lành; thường cầu lợi-ích cho tất cả chúng sinh, nên gọi là Phật.
(Xem: 18580)
Ðức Phật không chỉ nhận thức được sự thực tối cao, Ngài còn biểu lộ kiến thức cao cả của Ngài, kiến thức cao hơn tất cả kiến thức của các "Thần linh và Người".
(Xem: 25162)
Trí Khải (538-597), một trong những triết gia vĩ đại của Phật giáo Trung Hoa, đã đưa ra một cái nhìn quảng bác phi thường đối với pháp Phật với thiên tài của một môn đồ thành tín trên đường Đạo.
(Xem: 23792)
Luận này chuyên thuyết minh hạnh bố thí. Bố thí nghĩa là sự hy sinh triệt để; hy sinh được triệt để mới là bực đại trượng phu, nên luận này mệnh danh là ĐẠI TRƯỢNG PHU LUẬN...
(Xem: 28961)
"Học Phật Quần Nghi" là quyển sách giải thích những vấn đề nghi vấn của những người học Phật và tu Phật, chủ yếu là của Phật tử tại gia.
(Xem: 20891)
Hãy nôn ra lòng sân hận độc hại khỏi cõi lòng bạn. Sự sân hận đầu độc và bóp nghẹt tất những gì thiện mỹ nơi bạn. Tại sao bạn phải hành động chỉ vì con quái vật độc hại dấu mặt này?
(Xem: 31465)
Đức Phật ra đời và thuyết pháp “vì hạnh phúcan lạc cho số đông”. Những lời dạy của Ngài cho con người chỉ nhắm vào hai mục tiêu chính: khổ và diệt khổ.
(Xem: 25565)
Phương pháp tu tập thì nhiều, nhưng cốt yếu không ra ngoài Chỉ quán. Có Chỉ mới uốn dẹp được mê lầm, phiền não, có Quán mới nhận rõ pháp tánh chân như.
(Xem: 29734)
Bài pháp này căn cứ vào bản kinh Satta Sutta trong Saṃyutta Nikāya. Nhân dịp Tỳ Khưu Rādha hỏi Đức Phật về nghĩa chữ Satta (chúng sanh).
(Xem: 22539)
Trên thế giới đã có nhiều tôn giáo, tại sao lại còn cần thiết cho chúng ta có một đạo khác nữa gọi là Đạo Phật? Phải chăng có cái gì thật đặc sắc...
(Xem: 25740)
Ðạo Phật không phải chỉ là một siêu hình học, dù đạo Phật có đề cập đến những thắc mắc siêu hình. Siêu hình chỉ là một phương diện của đạo Phật...
(Xem: 23306)
Theo ý kiến thông thường được chấp nhận thì trong các kinh Phật, kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma - pundarika - sùtra), thường được gọi là kinh Liên Hoa (1) là kinh tuyệt diệu nhất.
(Xem: 25761)
Học Phật là tìm biết vai trò của đạo Phật trong suốt lịch sử của sự sống nhân loại, những đóng góp của đạo Phật trong văn hóa nhân loại, những luồng sinh khíđạo Phật đã thổi vào...
(Xem: 23754)
Toàn bộ giáo lý đức Phật đều nhằm mục đích ''chuyển mê khai ngộ'' cho chúng sanh. Vì mê ngộ là gốc của khổ vui. Mê thì khổ, ngộ thì vui.
(Xem: 40625)
Tiểu thừa – cỗ xe nhỏ, và Ðại Thừa – cỗ xe lớn tuy xuất phát từ hai nhánh của Tiểu thừa là Ðại chúng bộ và Nhất thiết hữu bộ, có một số đặc tính khác nhau.
(Xem: 23362)
Chúng ta vui mừng và tự hào rằng, Phật giáo Việt Nam là một bộ phận quan trọng của di sản đạo đứcvăn hóa quý báu của dân tộc.
(Xem: 22476)
Tập cẩm nang này đúc kết tinh hoa những lời dạy của vị Thánh-tăng cận đại - Hòa-Thượng Quảng-Khâm (1892-1986). Là người đã giác ngộ, mỗi lời dạy của Ngài trực tiếp phá vỡ vô minh...
(Xem: 22106)
Hành giả Bồ Tát phải tích cực hành Bồ Tát hạnh, nghĩa là mỗi hành động, mỗi lời nói, mỗi ý niệm đều hướng về chúng sinh, vì lợi ích chúng sinh.
(Xem: 23521)
Khi chúng ta hiện diện ở đây, chúng ta phải thiết lập một động cơ đặc biệt: tâm giác ngộ (tâm bồ đề) nhằm hướng đến giác ngộ vì lợi ích của tất cả chúng sinh.
(Xem: 24334)
Đề kinh Kim cang gồm hai phần. Tên tiếng Phạn là Vajrachedikā Prajñāpāramitā, trong đó phần đầu là tính từ phẩm định cho từ theo sau.
(Xem: 41131)
Kinh Phạm Võngkinh đầu tiên trong Trường bộ kinh và qua toàn văn chúng ta cũng đủ hiểu giá trị của kinh này như thế nào.
(Xem: 19013)
Muni có nghĩa là một bậc tiên nhân, một bậc thánh nhân, một bậc hiền giả sống một mình trong rừng. Trong kinh Vệ Đà chữ muni tương đương với chữ rishi.
(Xem: 20510)
Bồ-tát (菩薩), nói cho đủ là Bồ-đề-tát-đỏa (菩提薩鬌), phiên âm tiếng Phạn là Bodhisattva. Bồ đề dịch là Giác ngộ; tát-đỏa dịch là chúng sanh.
(Xem: 27743)
Ðức Phật là một nhà cách mạng, ngài đã không thỏa mãn với những giáo điều cổ truyền bà la môn nên đã tự mình tìm ra một Ðạo lý mới.
(Xem: 38138)
Trúc Lâm Yên Tử là một phái Thiền mà người mở đường cho nó, Trần Thái Tông vừa là người khai sáng ra triều đại nhà Trần, một triều đại thịnh trị đặc biệt về mọi mặt...
(Xem: 24516)
Quyển Kinh Viên Giác tôi giảng khá lâu rồi, nay được Tăng Ni chép lại trình lên tôi duyệt qua. Ðọc lại quyển Kinh Viên Giác, tôi thấy đây là con mắt của người tu Thiền.
(Xem: 22738)
Kinh PHÁP BẢO ĐÀN là một tài liệu thiết yếu cho những người tu theo Thiền tông, bởi vì cốt tủy Thiền tông đều nằm gọn trong những lời dạy đơn giản bình dị của Lục Tổ.
(Xem: 26566)
Kinh Kim Cang cũng có người đọc là Kim Cương. Kinh này do đức Phật nói, nguyên văn bằng chữ Phạn, sau truyền sang Trung Quốc được dịch ra chữ Hán.
(Xem: 53599)
Kinh Pháp Hoabộ kinh Đại thừa được nhiều dịch giả phiên dịch, được nhiều học giả nghiên cứu chú giải, lại được lưu truyền sâu trong giới trí thức...
(Xem: 23626)
Con người bình thường không thể nào so sánh được với bậc Bồ Tát; chỉ có những kẻ phi thường xuất chúng mới tiến lên gần gũi đôi chút với trí huệ Bồ Tát.
(Xem: 21119)
Giá trị của tập sách này là diễn đạt được tiến trình lịch sử tư tưởng Phật giáo qua ba giai đoạn: Phật giáo nguyên thủy, Phật giáo các bộ phái, và Phật giáo Ðại thừa.
(Xem: 30862)
"Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm bát nhã ba la mật đa thời chiếu kiến ngã uẩn giai không độ nhất thiết khổ ách. Xá Lợi Tử, sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc..."
(Xem: 21073)
Từ trước đến nay, nhiều người đã giảng rộng về Kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni, nhưng chưa có vị nào giảng giải về chú Đại Bi. Thực vậy, rất khó giảng giải về chú Đại Bi.
(Xem: 38807)
Phật giáo được sáng lập trên cơ sự tự giác của đức Thích Ca, tuy có chỗ siêu việt các tư tưởng nhất ban, nhưng cũng có nhiều điểm thừa thụ nền tư tưởng cố hữu của Ấn Độ mà phát đạt...
(Xem: 20567)
Sự tập thành của Hoa nghiêm (Gaṇḍavyūha) có lẽ là do ở một cuộc biến chuyển đã thành hình trong tâm trí của Phật tử đối với cuộc sống, với cõi đời, và nhất là với đức Phật.
(Xem: 20614)
Mặc dầu hư vọng phân biệt là một khái niệm liên quan mật thiết với đối cảnh sở duyên của chỉ quán, nhưng thực ra, hư vọng phân biệt là thức và thức là duyên sinh...
(Xem: 27073)
Đời nhà Đường, ngài Tam Tạng pháp sư tên là Huyền Trang tạo ra bài luận này. Ngài Huyền Trang sau khi dịch kinh luận về Duy Thức tôn, lại tạo ra Duy Thức luận...
(Xem: 28099)
Kinh Thập Thiện tuy ngắn gọn, nhưng rất thiết yếu đối với người tu tại gia cũng như người xuất gia. Cư sĩ tại gia khi thọ Tam qui và nguyện giữ Ngũ giới
(Xem: 37173)
Đạo Phật là đạo giác ngộ, toàn bộ giáo lý của Phật dạy đều nhằm đánh thức con người sớm được giác ngộ. Mê lầm là cội nguồn đau khổ, chỉ có giác ngộ mới cứu được mọi khổ đau của chúng sanh.
(Xem: 55193)
Hệ Bát-nhã là một bộ phận trọng yếu trong Tam tạng Thánh giáo, cánh cửa thật tướng mở toang từ đó, chân trời Tánh Không, kho tàng pháp bảo cũng toàn bày nơi đó...
(Xem: 37993)
Ngày nay tai nạn binh lửa lan tràn khắp thế giới, đó là do nghiệp sát của chúng sanh chiêu cảm. Vì thế nên cổ đức đã bảo: "Tất cả chúng sanh không nghiệp sát. Lo gì thế giới động đao binh!"
(Xem: 14577)
Đại Bát Niết Bàn Kinh Trực Chỉ Đề Cương - HT Thích Từ Thông biên soạn
(Xem: 10659)
Tác giả: Bồ tát Long Thọ (Nàgàrjuna) Hán dịch: Tam tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập Việt dịch: Thích Viên Lý
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant