Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương VIII: Cảnh Giới Của Chúng Sanh

07 Tháng Mười Một 201000:00(Xem: 10708)
Chương VIII: Cảnh Giới Của Chúng Sanh


Chương VIII: 

Cảnh Giới Của Chúng Sanh
1. Tâm Chúng Sanh
Vọng tưởng không có chủ tể. Phật (mới là bậc) có chủ tể.
Tu làm sao mà về già càng tu càng không quái ngại. Hễ muốn vãng sanh thì chỉ nhắm mắt như ngủ là đi ngay. Chúng ta đêm nào ngủ cũng tựa như cái xác chết, chẳng biết chuyện gì xảy ra xung quanh. Sáng tỉnh dậy, mở mắt ra là lập tức bắt đầu tiến trình chấp trước; nhìn cái này là 'của ta', thấy cái kia là 'của mình'...
Các bạn không thể thấy được những thứ vô hình hài, vô sắc tướng; do đó không có hứng thú, không thích chúng. Vì vậy, các bạn chỉ ham thích truy cầu thứ có sắc tướng mà thôi.
Lúc cha mẹ sinh bạn, bạn nào hay biết gì. Khi lớn lên một chút thì bạn bị 'dính bụi trần', chấp chặt quan niệm về cái ngã liền. Hễ chấp trước quan niệm về cái ngã thì sẽ có phiền não ngay. Song le, 
'Xưa nay không một vật,

Làm sao dính bụi trần?'

Những vị ở cõi trời thấy chúng ta giống hệt như mấy con giòi đen, thứ giòi ở trong cầu tiêu. Ðức Phật A-Di-Ðà phát 48 đại nguyện là để tiếp độ mình tới Thế-giới Cực-Lạc; song mình cứ một mực tham luyến cõi Ta-Bà, cho khổ là vui, hệt như mấy con giòi đen (cho cầu tiêu ô uế là nơi đầy thú vị)!
Mình thấy cầu tiêu hôi hám không chịu nổi nên muốn vớt mấy con giòi ra, thả chúng vào chỗ nước trong trẻo. Song lũ giòi ấy lại tham luyến cái cầu tiêu ô uế hơn mọi thứ, thà chết chứ không chịu đi đâu cả!
Con người ta học làm điều xấu thì rất dễ; còn học làm chuyện tốt thì khó lắm!
Bốn loài chúng sanh hễ ăn no rồi thì ngủ, tâm lúc nào cũng tán loạn.

2. Thói Quen, Tập Khí

Kẻ thẳng thắn dễ khai mở trí huệ.
Cá tánh của mỗi người rất quan trọng.
Tánh tình tốt, hiền hòa, thì đi tới đâu cũng hòa đồng được với mọi người, tùy thuận được người khác. Song tùy thuận cũng có hạn lượng; bởi vì đối với kẻ làm việc xấu thì mình không thể tùy thuận làm theo, mà phải kiên định lập trường, nguyên tắc hành động.
Bản thân con người thì không xấu ác gì; chỉ có thói quen, tập khí là hư xấu. Ai cũng có thói hư tật xấu, chỉ khác là kẻ ít người nhiều mà thôi. Chỉ cần bạn hướng tâm tu Ðạo là đủ. Hễ bạn có thể tha thứ cho ai, thì hãy tha thứ ngay. Ðừng bao giờ cho người ta là hư xấu.
Anh A có thói hút thuốc, đi đâu cũng phì phà khói thuốc. Anh B thì có thói đa nghi, lúc nào cũng nghi ngờ này nọ. Có lần A hút trước mặt B. Anh B tức giận, nghi rằng anh A khinh khi mình; thế là hai đàng sanh ra cãi vã, xung đột. May có anh C biết thói quen của hai người, nên đến giải hòa; khiến đôi bên từ đó sửa đổi, bỏ thói hút thuốc, bỏ tánh đa nghi.
Bởi vậy, thói xấu mà mình không tự nhận biết để sửa đổi, thì chỉ gây phiền não cho kẻ khác. Tâm đa nghi chỉ hại mình, chướng ngại việc tu. Khi thấy ai bất hòa, xung khắc, thì bạn chớ đổ dầu vào lửa khiến sự tình thêm rắc rối; mà phải luôn tìm cách giải hòa!
Có kẻ hay phê bình, chỉ trích, hoặc nói xấu người khác. Thật ra, y không tự hiểu việc làm của y là sai, mà y cũng không cố ý muốn chỉ trích, nói này nói nọ. Chẳng qua là do thói quen xấu mà y đã huân tập từ vô lượng kiếp về trước thúc đảy, khiến y bất giác làm vậy.
Trước kia có một người, khi nói chuyện với ai anh ta cũng luôn nhìn ngang liếc dọc, làm ra vẻ thần bí; khiến người khác khi nhìn anh ta thì họ có cảm giác như anh ta đang nói xấu ai đó. Kỳ thực, nào phải vậy! Ðó chỉ là thói quen xấu mà thôi.
Do đó, làm việc gì bạn cũng phải tự tại, tự nhiên; nếu không, bạn có thể rước đủ thứ phiền hà vô ích vào thân!

3. Danh lợiChậm Chạp

Mỗi người, ai cũng đầy một bụng phiền não.
Xưa kia ở Ðại Lục (Trung Hoa), hễ người nào càng cố công tu hành, càng có căn cơ, thì càng bị thử thách nhiều lắm. Có kẻ cố ý dùng đủ thái độ vô lý lại chèn ép, khiêu khích người ấy. Hoặc có kẻ thấy người ấy gần hoàn thành một công trình gì đó thì tới phá hoại cho sụp đổ tan tành. Tuy nhiên, phải xem căn cơ của người ấy thế nào rồi mới thử thách đặng. Nếu thử thách kẻ không có căn cơ, bản lãnh, thì y sẽ sanh phiền não.
Ở Ðài Loan thì khó mà thử thách ai. Bởi vì hầu hết các Ni-cô đều xuất thân từ mái nhà ấm cúng của cha mẹ, quen thói nhõng nhẽo; cho nên đối với họ, chỉ phải dùng toàn phương pháp thế gian mà thôi.
Ðời xưa, có vị Sư Phụ muốn thử coi công phu tu hành của đệ tử. Ngài bảo đệ tử mang ngược dép lại.
Kẻ có căn cơ, trí huệ, liền quỳ xuống; thì Sư-Phụ từ bi chỉ dạy. Kẻ ngu si thì quả thật mang dép ngược lại ngay. Còn kẻ không có căn cơ thì lập tức nổi đóa, sinh phiền não; cho rằng Sư-Phụ sai lầm, cố ý làm cho y phiền não.
Khi kẻ có căn cơ nghe bạn nói về y (phê bình, chỉ trích, mắng nhiếc), thì y biết rằng đó chính là lời Sư-Phụ y đang dạy dỗ; do đó, y biết cầu sám hối.
Khi kẻ thiếu căn cơ nghe bạn nói về y, thì y lập tức đấu khẩu, hỏi gặng vì sao bạn dám nói động đến y; và rồi y sanh lòng tức tối, phiền não. Y sẽ nghĩ tới mái nhà ấm cúng của cha mẹ y, nào là được ăn ngon, mặc đẹp, lại được đi học..., những tấn tuồng cũ kỹ khiến y sẽ đọa lạc mãi trong luân hồi.
Hễ việc gì tới mà mình tỉnh ngộ, thấu triệt, thì mình là kẻ có căn cơ. Kẻ không có căn cơ thì việc gì (trái ý muốn, trái sở thích) đến với y, y đều sanh phiền não, bực bội.
Kẻ không có căn cơ thì phiền não cả đống. Dù bạn cố ý giải thích, y cũng không thể hiểu.
Không trừ phiền não thì chánh niệm (sự suy tư đúng với chân lý hay Phật lý) không thể hiện tiền.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31293)
Đức Phật gọi là bực người tự nhiên, đem Nhất-Thiết-Chủng-Trí biết tất cả tự-tướng của các pháp sai khác; lìa tất cả điều chẳng lành; nhóm tất cả đìều lành; thường cầu lợi-ích cho tất cả chúng sinh, nên gọi là Phật.
(Xem: 18580)
Ðức Phật không chỉ nhận thức được sự thực tối cao, Ngài còn biểu lộ kiến thức cao cả của Ngài, kiến thức cao hơn tất cả kiến thức của các "Thần linh và Người".
(Xem: 25162)
Trí Khải (538-597), một trong những triết gia vĩ đại của Phật giáo Trung Hoa, đã đưa ra một cái nhìn quảng bác phi thường đối với pháp Phật với thiên tài của một môn đồ thành tín trên đường Đạo.
(Xem: 23792)
Luận này chuyên thuyết minh hạnh bố thí. Bố thí nghĩa là sự hy sinh triệt để; hy sinh được triệt để mới là bực đại trượng phu, nên luận này mệnh danh là ĐẠI TRƯỢNG PHU LUẬN...
(Xem: 28961)
"Học Phật Quần Nghi" là quyển sách giải thích những vấn đề nghi vấn của những người học Phật và tu Phật, chủ yếu là của Phật tử tại gia.
(Xem: 20891)
Hãy nôn ra lòng sân hận độc hại khỏi cõi lòng bạn. Sự sân hận đầu độc và bóp nghẹt tất những gì thiện mỹ nơi bạn. Tại sao bạn phải hành động chỉ vì con quái vật độc hại dấu mặt này?
(Xem: 31465)
Đức Phật ra đời và thuyết pháp “vì hạnh phúcan lạc cho số đông”. Những lời dạy của Ngài cho con người chỉ nhắm vào hai mục tiêu chính: khổ và diệt khổ.
(Xem: 25565)
Phương pháp tu tập thì nhiều, nhưng cốt yếu không ra ngoài Chỉ quán. Có Chỉ mới uốn dẹp được mê lầm, phiền não, có Quán mới nhận rõ pháp tánh chân như.
(Xem: 29735)
Bài pháp này căn cứ vào bản kinh Satta Sutta trong Saṃyutta Nikāya. Nhân dịp Tỳ Khưu Rādha hỏi Đức Phật về nghĩa chữ Satta (chúng sanh).
(Xem: 22539)
Trên thế giới đã có nhiều tôn giáo, tại sao lại còn cần thiết cho chúng ta có một đạo khác nữa gọi là Đạo Phật? Phải chăng có cái gì thật đặc sắc...
(Xem: 25740)
Ðạo Phật không phải chỉ là một siêu hình học, dù đạo Phật có đề cập đến những thắc mắc siêu hình. Siêu hình chỉ là một phương diện của đạo Phật...
(Xem: 23306)
Theo ý kiến thông thường được chấp nhận thì trong các kinh Phật, kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma - pundarika - sùtra), thường được gọi là kinh Liên Hoa (1) là kinh tuyệt diệu nhất.
(Xem: 25761)
Học Phật là tìm biết vai trò của đạo Phật trong suốt lịch sử của sự sống nhân loại, những đóng góp của đạo Phật trong văn hóa nhân loại, những luồng sinh khíđạo Phật đã thổi vào...
(Xem: 23754)
Toàn bộ giáo lý đức Phật đều nhằm mục đích ''chuyển mê khai ngộ'' cho chúng sanh. Vì mê ngộ là gốc của khổ vui. Mê thì khổ, ngộ thì vui.
(Xem: 40625)
Tiểu thừa – cỗ xe nhỏ, và Ðại Thừa – cỗ xe lớn tuy xuất phát từ hai nhánh của Tiểu thừa là Ðại chúng bộ và Nhất thiết hữu bộ, có một số đặc tính khác nhau.
(Xem: 23364)
Chúng ta vui mừng và tự hào rằng, Phật giáo Việt Nam là một bộ phận quan trọng của di sản đạo đứcvăn hóa quý báu của dân tộc.
(Xem: 22479)
Tập cẩm nang này đúc kết tinh hoa những lời dạy của vị Thánh-tăng cận đại - Hòa-Thượng Quảng-Khâm (1892-1986). Là người đã giác ngộ, mỗi lời dạy của Ngài trực tiếp phá vỡ vô minh...
(Xem: 22106)
Hành giả Bồ Tát phải tích cực hành Bồ Tát hạnh, nghĩa là mỗi hành động, mỗi lời nói, mỗi ý niệm đều hướng về chúng sinh, vì lợi ích chúng sinh.
(Xem: 23521)
Khi chúng ta hiện diện ở đây, chúng ta phải thiết lập một động cơ đặc biệt: tâm giác ngộ (tâm bồ đề) nhằm hướng đến giác ngộ vì lợi ích của tất cả chúng sinh.
(Xem: 24336)
Đề kinh Kim cang gồm hai phần. Tên tiếng Phạn là Vajrachedikā Prajñāpāramitā, trong đó phần đầu là tính từ phẩm định cho từ theo sau.
(Xem: 41132)
Kinh Phạm Võngkinh đầu tiên trong Trường bộ kinh và qua toàn văn chúng ta cũng đủ hiểu giá trị của kinh này như thế nào.
(Xem: 19013)
Muni có nghĩa là một bậc tiên nhân, một bậc thánh nhân, một bậc hiền giả sống một mình trong rừng. Trong kinh Vệ Đà chữ muni tương đương với chữ rishi.
(Xem: 20510)
Bồ-tát (菩薩), nói cho đủ là Bồ-đề-tát-đỏa (菩提薩鬌), phiên âm tiếng Phạn là Bodhisattva. Bồ đề dịch là Giác ngộ; tát-đỏa dịch là chúng sanh.
(Xem: 27744)
Ðức Phật là một nhà cách mạng, ngài đã không thỏa mãn với những giáo điều cổ truyền bà la môn nên đã tự mình tìm ra một Ðạo lý mới.
(Xem: 38142)
Trúc Lâm Yên Tử là một phái Thiền mà người mở đường cho nó, Trần Thái Tông vừa là người khai sáng ra triều đại nhà Trần, một triều đại thịnh trị đặc biệt về mọi mặt...
(Xem: 24516)
Quyển Kinh Viên Giác tôi giảng khá lâu rồi, nay được Tăng Ni chép lại trình lên tôi duyệt qua. Ðọc lại quyển Kinh Viên Giác, tôi thấy đây là con mắt của người tu Thiền.
(Xem: 22738)
Kinh PHÁP BẢO ĐÀN là một tài liệu thiết yếu cho những người tu theo Thiền tông, bởi vì cốt tủy Thiền tông đều nằm gọn trong những lời dạy đơn giản bình dị của Lục Tổ.
(Xem: 26566)
Kinh Kim Cang cũng có người đọc là Kim Cương. Kinh này do đức Phật nói, nguyên văn bằng chữ Phạn, sau truyền sang Trung Quốc được dịch ra chữ Hán.
(Xem: 53599)
Kinh Pháp Hoabộ kinh Đại thừa được nhiều dịch giả phiên dịch, được nhiều học giả nghiên cứu chú giải, lại được lưu truyền sâu trong giới trí thức...
(Xem: 23627)
Con người bình thường không thể nào so sánh được với bậc Bồ Tát; chỉ có những kẻ phi thường xuất chúng mới tiến lên gần gũi đôi chút với trí huệ Bồ Tát.
(Xem: 21119)
Giá trị của tập sách này là diễn đạt được tiến trình lịch sử tư tưởng Phật giáo qua ba giai đoạn: Phật giáo nguyên thủy, Phật giáo các bộ phái, và Phật giáo Ðại thừa.
(Xem: 30863)
"Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm bát nhã ba la mật đa thời chiếu kiến ngã uẩn giai không độ nhất thiết khổ ách. Xá Lợi Tử, sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc..."
(Xem: 21073)
Từ trước đến nay, nhiều người đã giảng rộng về Kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni, nhưng chưa có vị nào giảng giải về chú Đại Bi. Thực vậy, rất khó giảng giải về chú Đại Bi.
(Xem: 38807)
Phật giáo được sáng lập trên cơ sự tự giác của đức Thích Ca, tuy có chỗ siêu việt các tư tưởng nhất ban, nhưng cũng có nhiều điểm thừa thụ nền tư tưởng cố hữu của Ấn Độ mà phát đạt...
(Xem: 20567)
Sự tập thành của Hoa nghiêm (Gaṇḍavyūha) có lẽ là do ở một cuộc biến chuyển đã thành hình trong tâm trí của Phật tử đối với cuộc sống, với cõi đời, và nhất là với đức Phật.
(Xem: 20615)
Mặc dầu hư vọng phân biệt là một khái niệm liên quan mật thiết với đối cảnh sở duyên của chỉ quán, nhưng thực ra, hư vọng phân biệt là thức và thức là duyên sinh...
(Xem: 27073)
Đời nhà Đường, ngài Tam Tạng pháp sư tên là Huyền Trang tạo ra bài luận này. Ngài Huyền Trang sau khi dịch kinh luận về Duy Thức tôn, lại tạo ra Duy Thức luận...
(Xem: 28099)
Kinh Thập Thiện tuy ngắn gọn, nhưng rất thiết yếu đối với người tu tại gia cũng như người xuất gia. Cư sĩ tại gia khi thọ Tam qui và nguyện giữ Ngũ giới
(Xem: 37173)
Đạo Phật là đạo giác ngộ, toàn bộ giáo lý của Phật dạy đều nhằm đánh thức con người sớm được giác ngộ. Mê lầm là cội nguồn đau khổ, chỉ có giác ngộ mới cứu được mọi khổ đau của chúng sanh.
(Xem: 55193)
Hệ Bát-nhã là một bộ phận trọng yếu trong Tam tạng Thánh giáo, cánh cửa thật tướng mở toang từ đó, chân trời Tánh Không, kho tàng pháp bảo cũng toàn bày nơi đó...
(Xem: 37994)
Ngày nay tai nạn binh lửa lan tràn khắp thế giới, đó là do nghiệp sát của chúng sanh chiêu cảm. Vì thế nên cổ đức đã bảo: "Tất cả chúng sanh không nghiệp sát. Lo gì thế giới động đao binh!"
(Xem: 14577)
Đại Bát Niết Bàn Kinh Trực Chỉ Đề Cương - HT Thích Từ Thông biên soạn
(Xem: 10659)
Tác giả: Bồ tát Long Thọ (Nàgàrjuna) Hán dịch: Tam tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập Việt dịch: Thích Viên Lý
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant