Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Khổ Thánh Đế

01 Tháng Năm 201509:00(Xem: 5736)
Khổ Thánh Đế
KHỔ THÁNH ĐẾ

Chân Hiền Tâm


Khổ Thánh ĐếTôi đến với Phật pháp vì … quá khổ.

Khổ, vì mọi thứ được đặt nền tảng trên cái «quá sướng». Sướng trong hiện tại, dù hiện tại đó đã thành quá khứ, mà có lẽ cả trong quá khứ, là những kiếp về trước khi phước báu khá đầy đủ. Nó đã ghi lại đâu đó trong tiềm thức của tôi, nên khi mới khổ chút, đã thấy khổ vô vàn, khổ cùng cực. «Nhà giàu đứt tay ăn mày đổ ruột». Chuyện tất nhiên trong thế giới này. Một thế giới mà giá trị của pháp không phải tự bản thân nó gầy dựng giá trị cho nó mà được hình thành bằng sự đối đãi hoặc tương đãi,[1] Phật gọi là Duyên khởi.

Cái sướng ở quá khứ làm duyên để tôi cảm nhận cái khổ trong hiện tại. Và chính cái khổ đó lại là duyên giúp tôi đến với Phật pháp. Không khổ ít ai nghĩ đến Trời Phật. Khổ và hạnh phúc là một cặp đối đãi làm nên giá trị cho nhau. Lão Tử chiêm nghiệm và ghi lại trong Đạo Đức Kinh: «Thiên hạ đều biết cái đẹp này là đẹp, cái kia xấu. Đều biết cái thiện này là thiện, cái kia là bất thiện. Có và không sinh nhau, khó và dễ làm thành nhau, dài và ngắn so nhau, cao và thấp úp nhau, âm và thanh hòa nhau, trước và sau theo nhau…». Cái này luôn có mối liên hệ với cái kia. Nhờ cái kia mới có cái này. Mọi thứ ở thế gian đều hình thành theo cách như thế. «Dù chư Như Lai xuất hiện ở đời hay không xuất hiện ở đời, bản chất các pháp là thế. Vẫn quyết định tánh ấy. Vẫn theo duyên như thế». Là theo duyên «Do duyên sinh, lão tử có mặt».[2]

Khổ và tập

Khổ, là một chi phần trong Tứ thánh đế. Song nếu chỉ nói đến « khổ » mà cho là « khổ thánh đế » thì kinh Niết Bàn nói: «Nói khổ đó, chẳng phải là Tứ thánh đế, vì nếu nói khổ là khổ thánh đế thì tất cả trâu, dê, lừa, ngựa cùng người ở địa ngục lẽ ra đều có thánh đế».[3] Nhưng trâu dê lừa ngựa không phải là thánh. Nên biết, « khổ » nếu không đi liền với « tập », « diệt » và « đạo » thì « khổ » chỉ là khổ, không phải là « khổ thánh đế ». Kinh nói: «Người nào không tu tập như vậy thì gọi là khổ, không phải khổ thánh đế». Là «Tu tập được giải thoát và chứng biết như thật Như Lai thường trụ không có biến đổi».[4] Khổ chỉ được gọi là « khổ thánh đế » khi có sự tu tập và chứng biết. Tức không lìa « tập », « đạo » và « diệt ». Vì thế nói đến « khổ thánh đế » là phải nói đến « tập », đến « diệt », đến « đạo ».

Schopenhauer, một triết gia ở thế kỷ thứ XIX nói về nỗi khổ ở thế gian như sau: «Nếu ta chỉ cho một người thấy rõ những khổ đau và cay cực ghê ghớm mà cuộc đời của y phải chịu đựng miên viễn, y sẽ vô cùng kinh hãi. Và nếu ta dẫn người lạc quan kinh niên qua những bệnh viện, chẩn y viện, nhà tù, phòng tra tấn, củi nhốt nô lệ, qua bãi chiến trường và hành quyết… thì cả những người lạc quan kia cuối cùng cũng sẽ hiểu được bản chất của cái thế giới tốt đẹp nhất trong mọi thế giới khả hữu này. Từ đâu Dante đã lấy tài liệu cho địa ngục của ông nếu không phải từ chính thế giới thực thụ của chúng ta? Và rồi ông đã làm nó trở thành một địa ngục rất đặt biệt. Trái lại, khi mô tả thiên đường và những lạc thú của nó, Dante gặp một khó khăn không thể vượt, vì thế giới chúng ta không cung cấp một chút gì về điều đó».[5] Một cái nhìn được người đời cho là vô cùng bi quan, nhưng không hề thiếu tính xác thực. Ít ai dám nói thế giới này không khổ.

Người ta không nhận ra khổ hoặc có nhận ra cũng không biết do đâu có khổ và bản chất thực của khổ là gì. Cho nên, dù cách giải quyết khổ không sai, là phá bỏ những gì mang đến khổ cho mình, nhưng kết quả không mấy khả quan. Nếu khả quan, có khi lại tạo ra những nhân khổ mới. Bởi chỉ biết phá bỏ cái khổ từ ngoại cảnh mang đến mà gốc tạo khổ là ở bản thân thì không biết đến.

Với luận Đại Thừa Khởi Tín, « khổ » đơn giản chỉ vì động. «Động tức có khổ. Vì quả chẳng lìa nhân». Cái gì động? Tâm động. Bởi bất giác tâm động mà có quả khổ sinh tử. Do tâm bất giác vọng động mà xuất hiện thế giớichúng sinh. Nói gần hơn chút nữa. Con người khổ là vì có « tập ». « Tập » là sự tích tụ, là chi phần thứ hai trong Tứ thánh đế. Tâm bất giác vọng động rồi xuất hiện sự tích tụ. Vì tích tụ mà có khổ. Vọng động ra sao, tích tụ thế nào chỉ có Phật và hàng đại Bồ-tát mới thấu được, nhưng không vì thế mà ta không kiểm nghiệm được nó ở những việc nhỏ nhặt trong đời sống thường ngày.

Nghiện, là một dạng của tích tụ. Sự tích tụ của vô số các hành động như nhau, có thể khác nhau ở mức độ nhưng hình thức và nội dung thì không khác. Chúng được lặp đi lặp lại nhiều lần và trở thành thứ mà ta gọi là thói quen. Nghiện, là hình thức của một thói quen đã thành nặng ký. Nghiện bất cứ thứ gì đều khiến ta trở thành nô lệ cho thứ đó. Khổ xuất hiện khi sự thỏa mãn không được đáp ứng. Song với cái nhìn của đạo và những người mà quan niệm tự do là trên hết thì nô lệ, bản chất của nó đã là khổ, không đợi đến khi sự thỏa mãn không được đáp ứng mới thấy khổ. Khổ nhất là từ cái khổ đó, do muốn thoát khổ, ta lại gây tạo thêm nhiều nhân khổ mới.

Thế gian này có rất nhiều thứ khiến ta bị nô lệ. Làm một kẻ nô lệ tình nguyện. Tiền tài, danh vọng, tình cảm, danh dự v.v... Ta tình nguyện hiến dâng dời mình cho chúng và đánh mất viên minh châu vô giá trong mỗi người.

« Khổ » và « tập », ở mặt khái niệm và giải thích, không có gì khó hiểu. Nhưng để thực hiểu về chúng, đòi hỏi ta phải như thật biết thế nào là « khổ », là « tập ». Kinh Lăng Già Tâm Ấn có đề cập đến ba tướng thánh trí mà Bồ-tát phải tu học, trong đó có tướng «Chỗ tự nguyện của tất cả chư Phật», là chỗ chư Phật trước tự nguyện tu sinh. Đại sư Hàm Thị bàn rằng: «Kinh Anh Lạc nói: ‘Chưa qua khổ đế khiến qua khổ đế, chưa hiểu tập đế khiến hiểu tập đế, chưa an đạo đế khiến an đạo đế, chưa được diệt đế khiến được diệt đế’. Đây là bốn hoằng thệ, y nơi giáo Biệt và Viên, đều duyên hai thứ Tứ thánh đế hữu tácvô tác. Chính là tướng Phật trước tự nguyện. Bồ-tát phát tâm không đồng với Nhị thừa».[6] Kinh qua khổ đế là một trong bốn hoằng thệ của hàng Bồ-tát Đại thừa. Bồ-tát tu hành không sợ khổ xứ. Bởi không tự bản thân mình trải qua, không thể hiểu khổ là gì. Cũng không thể hiểu được tha nhân khổ ra sao mà động chủng từ bi. Không khổ, khó từ bỏ những gì mang đến khổ. Cũng khó nhận ra gốc của khổ. Không nhận ra được thì khó mà giải quyết khổ cho đến nơi đến chốn.

Vào khổ xứ mà có « đạo » và « diệt » làm nền tảng thì khổ là môi trường giúp tâm người tu thêm vững vàng. Cũng là nơi để kiểm nghiệm cái gọi là « đạo » và « diệt » mà mình đã thực hànhthực chứng. Bởi tướng thánh trí cuối cùng mà Bồ-tát phải đạt là «Tất cả chỗ, chứng được cảnh giới tự tâm hiện lượng».[7] Không kinh qua khổ xứ, sao biết « đạo » mình học, « diệt » mình chứng ứng duyên đã tới đâu? Phồn vinh và hưởng thụ là quả báo của phúc đức, nhưng cũng là nhân của sự yếu hèn. Cảnh tĩnh lặng, cần thiết cho việc tu tậpan định tự tâm, song nếu bám vào đó để tìm một sự thanh nhàn thì thành họa cho bản thân. Xem ra, thứ mà người đời cho là quả báo của phúc đức, với người tu cũng chỉ là một loại khổ xứ đáng tỉnh giác hơn cả nghịch cảnh. Bởi nghịch cảnh, khiến con người muốn ly. Thuận cảnh, khiến con người dễ bám víu.

Muốn thẩm thấu được tính Duyên khởi của vạn pháp cũng phải từ thế giới sai biệt mà vào. Kinh nói: «Bồ-tát không bỏ các thứ sai biệt đã có ở thế gianxuất thế gian mà được chỗ thẩm bày của phi 108 câu».[8]

Nói chung, không có phần « chư Phật trước tự nguyện tu sinh » thì mọi thứ chỉ hạn cuộc trên sách vở. Song kinh luận không thể tải hết những gì mà chư Phật muốn nói với chúng sinh. Vì thế, chưa qua khổ đế khiến qua khổ đế…

Chết là khổ. Vì nó là sự ra đi, chia lìa, phân tán. Có những sự phân tán thấy hãi hùngđau đớn, không phải chỉ cho người chết mà cả cho người sống, như hàng loạt các vụ tai nạn xảy ra gần đây. Chết là một trạng thái mà có lẽ sau đó, con người không còn cơ hội để rút kinh nghiệm. Nhưng đa phần đều sợ chết vì nó vẫn in đậm nét đâu đó trong tiềm thức của mình về những lần chết trước. Một sự ẩn tàng chi phối con người khá mạnh khi đủ duyên, khiến ta sợ hãi khi nghĩ về cái chết. Cho đến khi giác ngộ được bản chất của chết là gì.

Sinh cũng khổ. Một đứa bé ra đời là cả một sự kỳ diệu của tạo hóa nhưng cũng chất khá nhiều khổ não trong đó. Chưa lần nào đau đớn mà tôi thực sự giác ngộ «đời là bể khổ» khi sinh con gái đầu lòng. Chỉ là chưa đủ năng lực tỉnh giác trong thân một trẻ sơ sinh để biết cái khổ trong vai trò sở sinh. Song khóc thét, không phải là trạng thái sung sướng hay vui mừng. Con nít chỉ khóc khi nó đau, hoặc nhu cầu ăn uống không được thỏa mãn hay ít nhất là đang cảm nhận một cảm giác bất an khi phải rời khỏi môi trường quen thuộc, một dạng của sự tích tụ, nhân duyên tạo ra khổ.

Còn khoảng giữa của sinh và tử? Không thiếu những khoảng đau khổ hư vọng. Đầy dẫy những bất ổn và lo toan.

Bất an, lo lắng v.v… không phải là trạng thái hạnh phúc khi bạn chưa giác ngộ được bản chất của nó và đặt nó trong tầm kiểm soát của bạn.

Tôi không chỉ có một mình. Tôi có gia đình. Có một ít bạn bè và người thân cùng láng giềng. Kiếm một người thứhai như chồng tôi không phải dễ. Tìm cho ra những đứa con như tôi đang có, không có nhiều. Nhưng tôi vẫn nói với bạn rằng tôi không thấy có gì phức tạp hơn đời sống một gia đình. Đời sống xã hội không phải không phức tạp (nơi nào có tập thể, nơi đó có ít nhiều phức tạp), nhưng vì nó « không phải là của mình », mình không phải đối diện chung chạ nhiều như cùng trong một nhà, nên với tôi đời sống gia đình vẫn là đời sống phức tạp nhất.

Đơn giản đã được phức tạp hóa vì những ý thích và quan niệm không trùng nhau, nhưng lại không biết cách buông xả để hòa hợp. Vì những thứ không thuộc tôi đã trở thành của tôi, nhưng vẫn không thể là của tôi. Sự khác biệt về ý nghĩ cũng như lối sống giữa các thế hệ trong cùng một gia đình khiến mọi chuyện dễ phát sinh. «Chúng ta không hạnh phúc khi đã kết hôn nhưng không kết hôn chúng ta lại không hạnh phúc. Chúng ta bất hạnh khi ở một mình, bất hạnh trong xã hội. Chúng ta giống như những con nhím tụ lại cùng nhau để sưởi ấm và cảm thấy bất tiện khi quá ép lại gần nhau, nhưng lại khổ sở khi rời xa nhau».[9] Đó là những mâu thuẫncon người trong xã hội ngày nay hay gặp phải. Ái dục kéo con người lại gần nhau nhưng quan điểm, định kiến, sở thíchthói quen khác nhau khiến con người không chịu đựng nổi nhau.

Ái dục, gần như là thứ chỉ đạochi phối suy nghĩ cũng như hành động của con người. Cảm giác hoan lạc hạnh phúc trong ái dục, dù chỉ là trên mặt tinh thần, cũng khiến con người dễ dính mắc vào đó. Không phải chỉ người đời, ngay cả người tu cũng không thoát được. Có khi còn mê mờ hơn cả người đời. Cho đến khi mặt duyên khởi của cái hoan lạc ấy xuất hiện. Khổ. Mới lôi người ta ra được ít nhiều. Nhờ khổ, mới biết tỉnh giác mà tính chuyện lìa bỏ. Không thì cũng như người đời, yêu thương, trông mong và cũng thể hiện sự tranh dành ghen tuông một cách rất tự nhiên, quên mất mình đang mặc chiếc áo thanh tịnh của Như Lai. Bởi tập tính ái dục ẩn sâu trong tiềm thức. Đủ duyên liền sinh khởi và dấy lực lôi mình đi. Chỉ khi khổ xuất hiện mới dừng được ít nhiều. Xem ra, ở mặt nào đó, « khổ » chính là « đạo ». Vì nó giúp ta từ bỏ.

Nietzche, trong một phút yếu đuối đã si tình cô nàng Lou Salomé nhưng Lou Salomé không đáp lại. Chàng thất vọngbỏ ra đi. Đi từ Ý đến những miền cao của dãy Alpes ở Sil, không yêu đàn ông cũng không yêu đàn bà mà chỉ cầu nguyện cho con người có thể siêu việt. Trên những miền cao cô quạnh đó, chàng thanh niên đã cảm hứng:

Tôi ngồi đây chờ đợi, chờ đợi hư vô

Đã vượt ngoài thiện ác…

Bây giờ tôi thưởng thức

Ánh sáng và bóng râm

Chỉ có ngày, hồ, ban trưa, thời gian vô tận…

Nhưng bỗng nhiên bạn hỡi ! Một đã thành hai.

Và Zarathustra lướt qua cạnh tôi.

Những câu văn chất đầy mùi đạo: Một tâm thức vượt ngoài thiện và ác, chỉ biết đến những gì đang hiển bày trong hiện tại. Và tâm từ bi nở hoa: «Hỡi những vì sao vĩ đại ! Hạnh phúc của ngươi sẽ là gì, nếu không có những người mà ngươi chiếu cho họ ánh sáng?».[10]

Tuy vậy, « khổ » không phải là « đạo ». Bởi nó giúp người ta từ bỏ nhưng lại không cho người ta một con đường dẫn đến thiên đường hay niết bàn. Người ta có thể từ bỏ cái khổ này nhưng có khi lại bước sang cái khổ khác. Chúng ta loay hoay trong những được, mất, hơn, thua… không có lối thoát và bế tắc với những suy nghĩ và hành động của mình. Cuối cùng là điên hay tự tử. Một cách mà chúng sinh thường dùng để giải quyết nỗi thống khổ ở đời.

Mười mấy năm trước, tôi đã nhìn thấy cảnh này tại bệnh viện Sài gòn: Một người phụ nữ đã tự tử bằng thuốc rầy. Cô nhập vào thân người con gái của gia đình mà cô oán hận và nhảy ra đường cho xe đụng để gia đình đưa cô gái vào đúng cái gường mà cô đã chết. Người mẹ khóc lóc van xin, nhưng người phụ nữ đau dớn đấm vào ngực mình mà nói: «Bà van xin tôi buông tha con bà, nhưng còn cái nóng bức đau đớn tôi đang chịu đây, ai buông tha cho tôi?». Thuốc rầy và nỗi uất hận khi chết đã làm cô đau đớn nóng bức không nguôi. Chỉ muốn trả thù. Tội là ở đó. Khổ có khi giúp ta từ bỏ nhưng có khi… Cho nên, cần « đạo ».

Có « đạo » để nhận ra « khổ », nhận ra gốc của « khổ ». Muốn hết « khổ » cũng phải nhờ « đạo ». Vì thế « đạo » được lập thành một chi phần riêng trong Tứ thánh đế. Nó là nhân đưa đến thiên đường hay niết bàn, chính là « diệt ».

Phần đoạn sinh tử khổ

Biến dịch sinh tử khổ

Theo luận Đại Thừa Khởi Tín, khổ có hai thứ : Khổ của phàm phu và khổ của thánh nhân.

Thánh nhân vẫn còn khổ?

Ngoại trừ Phật, còn lại chưa ai hết động. Dù động ở thánh nhân không thô phù như ở phàm phu nhưng cũng là động. «Động tức có khổ, vì quả chẳng lìa nhân». Song hình thức và mức độ khổ của hai không như nhau.

Phàm phu khổ vì danh lợi, cơm ăn, áo mặc, bất như ý mà khổ v.v... Phật nói chúng sinh có tám thứ khổ: Sinh, lão, bệnh, tử, ghét mà ở gần nhau, thương lại phải xa nhau, muốn mà không được, và cuối cùngngũ ấm thạnh khổ. Luận Du-già Sư Địa thì nói tám khổ là lạnh, nóng, đói, khát, không được tự do, tự làm khổ lấy mình, bị người khác bức bách, phải chịu ở một tư thế nào đó trong suốt thời gian dài.[11]

Thánh nhân khổ, vì chưa chứng được hoàn toàn tâm chân như, vẫn còn chịu cái khổ biến dịch vi tế của chuyển thức mà gốc trợ nó là Căn bản vô minh, là Vô minh trụ địa nói trong kinh Thắng Man. Vậy nên nói thánh nhân khổ là so với bốn đức thường, lạc, ngã tịnh của Phật mà nói khổ. Không như khổ của phàm phu, do nghiệp trói buộc mà khổ.

Phần đoạn sinh tử, theo luận Thành Duy Thức[12], là các nghiệp hữu lậu do thế lực của phiền não chướng làm duyên trợ giúp mà chiêu cảm ra quả Dị thục thô phù trong ba cõi với thân mạng sống lâu hay chết yểu. Do sức nhân duyên mà có sự hạn định, nên gọi là Phần đoạn sinh tử.

Luận Đại Thừa Khởi Tín nói «Tăng trưởng phân biệt sự thức huân tập khiến cho phàm phu phải chịu cái khổ do nghiệp trói buộc». Là đối với cảnh trước mắt, không biết duy tâm sở hiện, khởi phân biệt mà sinh yêu ghét. Từ cái yêu ghét đó sinh ra khổ vui, thức tâm khởi niệm tương ưng chẳng dứt. Đối với cảnh ưa thích sinh tâm chấp thủ tham muốn. Với cảnh không ưa thích, sinh tâm sân giận rồi tìm cách xa lìa. Từ đó mà tạo nghiệp. Y nghiệp đã tạo mà thọ báo, không thể tự tại, nên nói bị nghiệp trói buộc.

Bất tư nghì biến dịch sinh tử, là các nghiệp vô lậu do thế lực của sở tri chướng làm duyên trợ giúp chiêu cảm ra quả Dị thục với thân mạng thù thắng vi tế. Do sức bi nguyệnthân mạng này chuyển dịch không hạn định, nên gọi là biến dịch. Vì do định vô lậu làm duyên trợ giúp chiêu cảm, diệu dụng khó lường, nên nói «bất tư nghì». Thân biến dịch này là ý sinh thân (tùy ý nguyện mà sinh) của hàng Bồ-tát.

Luận Đại thừa Khởi Tín nói: «Nghiệp thức căn bản huân tập khiến cho A-la-hán, Bích Chi Phật và tất cả Bồ-tát phải chịu cái khổ sinh diệt». Tự thể chân như không có tự tánh, bất giác mà có vô minh. Vô minh huân trở lại chân như biến chân như thành nghiệp thức. Từ nghiệp thức đó mà có chuyển thứchiện thức v.v… tức Tam tếLục thô.

Nếu lấy Trí tướng trong Lục thô làm mốc thì phàm phu có đủ 9 tướng. Thánh nhân, tùy địa vị sâu cạn, chỉ bị các tướng từ Trí tướng trở lên chi phối. Như La-hán, phạm hạnh đã thành, không còn sinh tử, tức không còn bị nghiệp trói buộc, nên không bị cái khổ của phàm phu chi phối. Nhưng vì chưa chứng chân như, chưa mãn thành quả Phật, nên vẫn bị chuyển thức chi phối mà nói khổ.

Thân Biến dịch tuy là sinh tử khổ của thánh nhân nhưng là thành quả tu hành của hàng phàm phu trong một giai đoạn nào đó. Cho nên, với phàm phu, Biến dịch sinh tử không gọi là khổ. Chỉ gọi là khổ khi phàm phu đã thành thánh nhân và đứng ở gốc độ Tam tế Lục thô mà xét. Luận Đại Thừa Khởi Tín chỉ nói phàm phu chịu cái khổ của Phần đoạn sinh tử, không nói chịu hai cái khổ là Phần đoạn và Biến dịch. Lý của pháp Duyên khởi là vậy, niết bàn của hạng này có khi vẫn là khổ của hạng kia.

Theo Lăng Già Tâm Ấn,[13] phải là hàng Bồ-tát từ Sơ địa (đã đoạn hết kiến hoặc) trở lên mới có ý sinh thân. Song luận Đại Thừa Khởi Tín lại nói « tất cả Bồ-tát » là do «nhiếp vào phương tiện ngôn mà nói. Vì mỗi vị cuối cùng đều đến Phật địa».[14]

A-la-hán, Bích Chi Phật và hàng Bồ-tát đại lực đã đoạn hết phiền não chướng (Tứ trụ địa), nên không còn thọ thân Phần đoạn đời sau. Muốn tu Bồ-tát hạnh để được quả bồ-đề, phải nương thân Biến dịch, tức dùng nguyện lực của thắng định vô lậu, mà trở lại tam giới hành Bồ-tát đạo.[15]

Chân Hiền Tâm NSGN số 206
[1] Đối đãi: Đợi có đối nhau mới thành. Như ngón tay áp út, bản thân nó không dài, không ngắn. Chỉ khi so với ngón dài hơn là ngón giữa thì nó thành ngắn. So với ngón ngắn hơn là ngón út thì nó mới có giá trị dài.
Tương đãi: Đợi nhau mà thành. Như ngón tay được hình thành từ nhiều duyên, do tứ đại họp thành.
[2] Bài kinh Thánh Cầu – Kinh Trung Bộ.
[3] Kinh Đại Bát Niết Bàn – HT Trí Tịnh dịch.
[4] Phẩm Tứ đế - kinh Đại Bát Niết-bàn quyển 1.
[5] Câu Chuyện Triết Học – Will Durant – Trí Hải và Bửu đích dịch.
[6] Kinh Lăng Già Tâm Ấn - Đại sư Hàm Thị chú giải – Bản dịch của HT Thanh Từ.
[7] Đại sư Hàm Thị.
[8] Kinh Lăng Già Tâm ẤnĐại sư Hàm Thị trực giải. HT Thích Thanh Từ dịch.
[9] Schopenhauer – Câu Chuyện Triết Học của Will Durant. Bản dịch của Trí Hải và Bửu Đích.
[10] Câu Chuyện Triết Học của Will Durant. Bản dịch của Trí Hải và Bửu Đích.
[11] Tự điển Phật Học Huệ Quang.
[12] HT Thích Thiện Siêu dịch và chú. Phần Biến dịchPhần đoạn sinh tử dều được trích ra từ luận này.
[13] Lăng Già Tâm Ấn - Đại sư Hàm Thị trực giải. HT Thanh Từ dịch
[14] Lời của Tổ Hiền Thủ trong Hoa Nghiêm Thám Huyền Kí - Phẩm Thập Hạnh.
[15] Luận Thành Duy Thức – HT Thiện Siêu dịch và chú thích


Mục Lục
Tuyển Tập Kính Mừng Phật Đản
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 37218)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 28251)
Sự hiện hữa của các pháp trên mặt hiện tượng của tướng đó là một sự hiện hữu giả hợp do duyên và, mặt khác tánh của chúng là Không cũng do duyên mang lại.
(Xem: 28862)
Bàn tay cầm chiếc chìa khóa vô thườngchánh niệm. Dùng hơi thở chánh niệm ta tiếp xúc với mọi sự vật, quán chiếu và thấy được tính vô thường của mọi sự vật.
(Xem: 27126)
Phật dạy: Tự tính của Không là không nằm trên bình diện có không, không nằm trong khuôn khổ các vọng tưởng, không có tướng sinh, không có tướng diệt, và vượt thoát mọi tri kiến.
(Xem: 34551)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 27773)
Tôi nghĩ nhiệm vụ quan trọng nhất của bất cứ một hành giả của một tôn giáo nào là thẩm tra chính họ trong tâm hồn của chính họ và cố gắng để chuyển hóa thân thể, lời nói
(Xem: 33199)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 28518)
Khi Phật thành đạo là do đạt được Trí Tuệ hay Giác Trí Tuệ thì các pháp giải thoát được thiết lập thực hành Giác Trí Tuệ trong các thời thiền tập.
(Xem: 30027)
Khi tuệ giác nội quán của chúng ta vào trong bản chất tối hậu của thực tạiTính Không được sâu sắc và nâng cao, chúng ta sẽ phát triển một nhận thức về thực tại...
(Xem: 25457)
Thông thường mà nói Bát Nhã có ba ý nghĩa. Thứ nhất là thực tướng, tướng là tướng trạng, thực tướng chính là hình ảnh chân thực. Nghĩa thứ hai là quán chiếu Bát Nhã, cũng chính là chỗ dụng của thực tướng.
(Xem: 51237)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 26672)
Tận cùng tư duy của Đạo Phật quan tâm, định luật căn bản là: chúng ta muốn hạnh phúc. Quyền căn bản của chúng tađạt được hạnh phúc.
(Xem: 28575)
Khi chúng ta nói về từ bi, thật đáng khuyến khích để lưu ý rằng bản chất tự nhiên của con người, tôi tin, là từ bihiền lành.
(Xem: 24316)
Tự tánh giả danh hay tùy thuộc cũng nằm trong phạm trù Tánh không. Tự tánh giả danh được thể hiện tướng sanh diệt do tác động thời gian thì có sanh có diệt...
(Xem: 27418)
Tuệ quán là tri nhận một cách sáng suốt, vô thời gian. Vì lẽ chơn thức (tri giác nguyên sơ) là một điểm nhận thức có thật trong động tác nhận thức đầu nguồn của tri giác.
(Xem: 31876)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 30146)
Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có thiện nam, thiện nữ nào muốn vì chúng sinh mà nói kinh Pháp Hoa này thời thiện nam hay thiện nữ ấy phải vào nhà Như Lai... Pháp sư Thích Thiện Trí
(Xem: 27657)
“Dược Sư Lưu Ly Quang” là tên gọi của đức Phật này; “Như Lai” là một trong mười tôn hiệu của mỗi vị Phật; “Bổn Nguyện” là các lời phát nguyện của đức Phật này khi Ngài phát tâm Bồ-đề...
(Xem: 35382)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 27399)
Ngày nay, Kinh Chuyển Pháp Luân thuộc Tương Ưng Sự ThậtTương Ưng Bộ SN 56.11 trong kinh điển Pali được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật.
(Xem: 31695)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 24132)
Cách mà chúng ta đang sống sẽ là một trong các nhân tố chính yếu có thể mang lại cho chúng ta sự thanh thảnđiềm tĩnh trong giây phút lâm chung.
(Xem: 22983)
Kinh này có tám phương pháp tu hành thành Phật, mà bậc Đại nhân gánh vác sự nghiệp lớn liễu sinh thoát tử, hóa độ chúng sinh cần phải giác ngộ, nên gọi là Kinh Tám Điều Giác Ngộ Của Bậc Đại Nhân.
(Xem: 26609)
Nếu chúng ta thẩm tra thế giới tinh thần của chúng ta, chúng ta thấy rằng có những nhân tố tinh thần đa dạng có cả những khía cạnh tích cựctiêu cực.
(Xem: 28207)
Càng trau dồi, Giác Trí càng khai mở thì Pháp Phật càng sáng tỏ hơn; giống như càng nghiên cứu học hỏi thì kiến thứctư tưởng càng phong phú và sâu sắc hơn.
(Xem: 29325)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 33209)
Hình ảnh của Bồ Tát Địa Tạng với khuôn mặt đôn hậu, từ ái, đầu đội mũ tỳ lư, tay cầm tích trượng là một hình ảnh luôn tỏa sáng trong tâm khảm của những người con Phật...
(Xem: 21725)
Để dễ tiếp cận, chúng ta sẽ nêu câu hỏi cụ thể, rằng “Ai đã vượt qua cả thiện và ác?” và các trích dẫn nơi đây sẽ chỉ tập trung riêng vào Kinh Pháp Cú (Dhammapada).
(Xem: 20581)
Theo Trung Quán, duyên khởi không có nghĩa là nguyên lý của một tiến trình ngắn ngủi, mà là nguyên lý về sự lệ thuộc vào nhau một cách thiết yếu của các sự vật.
(Xem: 22209)
Vì sự vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, nên tâm khôngtự tính. Sáu thức hay tâm thức đã vô thường thì nó cũng không có chơn thật.
(Xem: 23942)
Nói khái quát, Phật giáo quan niệm thực tại không ngừng biến chuyểnbác bỏ khái niệm bền vững lâu dài. Tất cả là một dòng sát na sinh diệt liên tục, tất cả là lưu chú...
(Xem: 22822)
Với hy vọng và một cảm giác hạnh phúc, thân thể chúng ta cảm thấy an lạc. Vậy nên hy vọnghạnh phúc là những nhân tố tích cực cho sức khỏe của chúng ta.
(Xem: 23166)
Một quan điểm khách quan mà nói, các kinh dù nguyên thủy hay phát triển, cốt tủy Giác Ngộ được Cứu CánhGiải Thoát khỏi dòng Tâm Thức vẩn đục...
(Xem: 30369)
Mục tiêu cuối cùng của việc học Phật là khai trí huệ. Trí huệ từ Định lực mà có, cũng chính là do tâm thanh bình đẳng mà có...
(Xem: 21753)
Sodpa hay Nhẫn nhục ba la mật là một trong những pháp thực hành Bồ tát đạo quan trọng nhất. Có những hoàn cảnh đặc biệt bạn cần phải thực hành hạnh Sodpa.
(Xem: 19229)
Với Phật giáo, sống là sống với. Do đó, bạn bè là một thuộc tính riêng có của các loài chúng sanh nói chung và của con người nói riêng...
(Xem: 20125)
Muốn đền đáp ân đức cha mẹ là khi cha mẹ chưa có lòng chính tín thì khuyên bảo cha mẹ có lòng chính tín để có được nơi an ổn từ niềm tin đó...
(Xem: 32667)
Pháp sư Ấn Hải dịch từ Nhật ngữ sang Hoa ngữ vào năm 1987, Thích nữ Viên Thắng dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ vào năm 2011
(Xem: 33968)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 27720)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 23793)
Tâm kinh Bát-nhã là một bản kinh trọng yếu trong nhà Thiền, bản kinh này nói về “tánh không” của các pháp. Người tu Phật phải mở được cánh cửa trí tuệ...
(Xem: 23163)
Từ bi bác ái, tự giác giác tha. Ấy là mục đích của bậc chơn tu chánh đạo. Xưa, Phật ra đời khai môn giáo hóa, tế độ quần sanh trong bốn mươi chín năm...
(Xem: 28102)
Ngay từ lúc hóa sinh ở đấy, nguyện cho con đạt đến chính tư duy, chính định, tâm linh không điều kiện của giác ngộ, vô tận biện tài, và vô số kho tàng của tuyệt diệu như thế...
(Xem: 19182)
Ở một chừng nào đó có thể hiểu, đi theo con đường của Phật, noi theo công hạnh của Phật, để cuối cùng được kết quả như Phật… thì được xem là đang làm việc Phật.
(Xem: 24547)
Nội dung của Kinh Di Giáo là những lời dạy của đức Thế Tôn trước khi nhập diệt. Lời lẽ đã tha thiết, ý nghĩa lại sâu xathực tế.
(Xem: 21393)
Bổn phận của người Xuất Giatu đạo, truyền đạoduy trì Phật giáo, cho đến thực hiện tinh thần Bồ-tát nhập thế, còn bổn phận của người Tại Gia là ở bên ngoài hộ trì Phật giáo.
(Xem: 23797)
Diệu Pháp Liên Hoa, đề kinh được cấu tạo theo thể cách Pháp và Dụ. Diệu Pháp ám-tỷ cho cái Tri Kiến Phật nhiệm mầu vốn có của tất cả chúng sanh...
(Xem: 29358)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 30972)
Mục đích của Phật pháp không ngoài việc giúp chúng sinh giác ngộ tự tâm, xa lìa khổ đau đạt được an lạc... Thích Tâm An biên dịch
(Xem: 25280)
Thân tất cả chư Phật, Là thân một đức Phật. Một tâm một trí huệ, Lực vô úy cũng thế... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 20091)
Nghiệp báo, trước tiên nhất có nghĩa là hành động. Chúng ta phân biệt một loại nghiệp báo, là bản chất tinh thần, một nhân tố tinh thần...
(Xem: 19017)
Theo lời dạy của Đức Phật, sắc sanh như là các hạt nhỏ. Các hạt nhỏ này có thể nhỏ hơn các nguyên tử. Khi quý vị thực hành thiền tứ đại một cách có hệ thống...
(Xem: 20105)
Diệu pháp đại thừa pháp Liên hoa một đóa trăng Cõi trời người cung kính Quy mạng đốn giác môn.
(Xem: 20005)
Đức Phật là vị thầy, người hướng dẫn và chỉ đạo tâm linh của chúng ta. Do thế, những hành vi thân thể, lời nóitư tưởng phải phù hợp với lời dạy của ngài.
(Xem: 19379)
Chúng ta sống trong không gian vô cùngthời gian vô tận tất phải có nhận thức về thế gian. Thế gianmột thế giới hiện tượng lưu chuyển mãi...
(Xem: 22533)
Tất cả các đệ tử đã đến đây, bởi đang tìm kiếm sự giải thoáthạnh phúc vô song tối thượng của sự toàn giác. Mọi người tập họp ở đây vì chúng sinh, vì Giáo Pháp...
(Xem: 31098)
Vâng, để Giác Ngộ, chỉ cần xoáy vào một chữ tâm đó thôi. Chỉ cần an trụ, chỉ cần hàng phục được cái tâm đó là xong! Nghĩa là trở thành một bậc Giác ngộ, ngang hàng với Phật...
(Xem: 19670)
Hạnh phúc hay khổ đau trong kiếp sống hiện tại và tương lai đều là kết cục của những ý nghĩ và hành động trong kiếp sống quá khứ hay bây giờ của chúng ta...
(Xem: 19652)
Một khi chúng ta chấp nhận một truyền thống tôn giáo, thì điều ấy phải trở thành một bộ phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
(Xem: 23939)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant