Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Cách Tu Tập Thứ Nhất

28 Tháng Sáu 201512:20(Xem: 7709)
Cách Tu Tập Thứ Nhất

GIÁO HUẤN CỦA ĐỨC ĐẠT-LAI LẠT-MA
CÁCH TU TẬP THỨ NHẤT

Hoang Phong

Cách Tu Tập Thứ Nhất

Đạt được cơ sở con người, cơ sở đó giống như một cái bình thật quý và hiếm hoi, giúp ta có thể giải thoát tất cả kẻ khác và cho cả chính ta ra khỏi đại dương của Luân hồi, cơ sở con người đó giúp ta biết lắng nghe, suy nghĩthiền định, cả ngày lẫn đêm không ngưng nghỉ, đấy là cách tu tập của những người Bồ-tát.

Phúc hạnh thật sự chỉ có thể đạt được nhờ vào đạo đức của nghiệp, tích lũy những hành vi đạo đức sẽ tạo ra trong tâm thức những « hạt giống » làm nẩy nở khả năng mang đến hạnh phúc. Phương pháp loại bỏ những sai lầm là cách làm cho phát sinh trong ta tâm thức của Phật, tức Bồ-đề tâm.

Muốn đạt được thể dạng của Phật, tức Bồ-đề tâm, phải tu tập về Đạo Pháp, tu tập để biết được « những gì » phải trút bỏ và « những gì » phải thực hiện ; thân xác quý giá của con người thật là cần thiết để thực thi điều này. Trong lúc này đây khi tôi đang giảng huấn, chung quanh chúng tavô số sinh vật, trên nguyên tắc, chúng phải nghe được tiếng tôi giảng, nhưng dạng thể súc vật đã cản trở, không cho phép chúng hiểu được một điều gì cả. Chúng ta may mắn hơn, có được một cơ sở cần thiết, đó là sự sống con người. Chúng ta lại có được sự sống đó trong một xứ sở mà Đạo Pháp nở hoa, chúng ta có khả năng biết đọc, biết nghe, biết suy nghĩ, và biết cả phân biệt. Vậy ta có tất cả các khả năng cần thiết để tu tập Đạo Pháp. Nếu trong số quý vị có những người đã già, không biết đọc, cũng chẳng biết viết, nhưng ít ra cũng nghe được và hiểu được một vài câu về Đạo Pháp. Một thân xác dù quá già và quá mỏi mòn, nhưng vẫn là thân xác « quý giá » của con người, vẫn quý giá hơn là thân xác tốt đẹp của một con thú còn trẻ và khoẻ mạnh. Sự sống con người là một giá trị lớn lao, tuy rằng có đến hàng nhiều triệu con người trên địa cầu này, nhưng dịp may được làm thân con người quả thật hiếm hoi. Chúng ta lại đang có nó trong lúc này, và hơn thế nữa, chúng ta đây là những người Tây Tạng, và một số người khác liên hệ ít nhiều với chúng ta hôm nay, tất cả được biết đến một thứ Đạo Pháp vẹn toàn nhất, ấy là Đại thừa tan-tra. Chúng ta đừng đánh mất dịp may đó ; chúng ta có thấy phi lý chăng nếu một người có nhiều tiền, đi vào một khu chợ đầy rẫy hàng hóa, nhưng khi trở về thì hai bàn tay trống không. Dù cho ta còn trẻ hay già nua, mỗi người trong chúng ta cần phải cố gắng để đừng phí phạm sự sống con người « quý giá » này.

Sự sống con người, hết sức là khó tìm ra nó và cũng hết sức dễ để đánh mất nó, muốn có nó phải có những hành vi đạo đức từ kiếp trước, nhưng không phải là những hành vi lẻ tẻ và hời hợt, nhưng là những hành vi thường xuyênliên tục. Ngay lúc này đây ta phải tích lũy một số lớn những điều xứng đáng, không được chờ đến ngay mai, hay về sau này. Những điều xứng đáng ta làm được sẽ bị tiêu hủy nhanh chóng nếu có một chút lỗi lầm, kiêu ngạo, ác cảm, ích kỷ, đấy là những thứ xúc cảm mà chúng ta đều có và chúng chỉ chờ bất cứ một dịp thuận tiện nhỏ nhoi nào đó để bất thần xâm chiếm lấy ta. Vì thế, chắc gì những xứng đáng trong quá khứ, dựa vào đó ta có được sự sống hôm nay, sẽ vẫn còn nguyên vẹn mãi mãi. Chúng ta hãy đổi mới chúng, gia tăng thêm và đừng nghĩ đến cái « gia tài » mà ta tự cho rằng đã có sẵn.

Mỗi người đều có thể tu tập Đạo Pháp, vì điều này không đòi hỏi phải hy sinh tất cả và phải chui vào một cái hang để thiền định. Chúng ta có thể tu tập Đạo Pháp trong đời sống hằng ngày bằng cách vẫn giữ một số sinh hoạt không thuộc thế tục. Cần có tâm linh cao cả, nhân từ, cởi mở, không giao động, cũng không hiếu chiến, để khi hoàn cảnh bên ngoài trở nên thuận lợi, sẽ giúp ta thăng tiến nhanh chóng trên Con Đường. Hãy bắt đầu từ tối hôm nay, đừng trông chờ sau này. Hãy canh chừng những lỗi lầm nhỏ bé, dù rằng khi thoạt nhìn chúng tỏ ra vô hại ; chẳng hạn canh chừng cả những chuyện nói dối vặt vãnh : có những kẻ chuyện gì cũng nói dối, chẳng nghĩ đến và cũng chẳng nhận ra là có hại. Đó là những xu hướng do nghiệp thúc đẩy ; cần phải tháo gỡ chúng từng tí một và đừng nản chí. Không nên nói : « Đạo Pháp quá lớn lao đối với tôi, tôi là một kẻ mang đầy tội lỗi ». Tất cả chúng ta là những người mang đầy tội lỗi, thế nhưng kể từ tối hôm nay, chúng ta thử thay đổi một chút xem sao. Cả tôi đây, ngay từ lúc này, tôi cũng sẽ tự xét xem còn những gì sai lầm sót lại trong tôi. Hãy làm như thế và đừng để mọi sự cứ tiếp tục xảy ra như trước, đễ rồi ta tự đổ thừa là không làm nổi.

Tu tập Đạo Pháp, tức là loại dần những sai lầm và làm gia tăng các phẩm tính đích thực, để sau cùng đạt được những gì tối thượng ; chính lúc ấy sự khéo léo của ta trong công tác giúp đỡ tất cả các sinh linh sẽ trở nên hoàn hảo. Bồ-đề tâm phát sinh từ sự tu tập Đạo Pháp, và chỉ có thể dạng ấy mới có thể giúp ta tạo ra phúc hạnh tối thượng và đích thực ; muốn hiểu được cái quả hoàn hảo ấy như thế nào khi biết tu tập Đạo Pháp, ta cứ nhìn vào các vị Bồ-tát và Phật, ấy là những bằng chứng cho ta. Nhưng noi theo con đường đó không phải chỉ cần vỏn vẹn một mớ kiến thức thông thái về Đạo Pháp là đủ ; các phẩm tính cần thiết chỉ có thể phát huy bằng sự tu tập, và vì vậy phải biết « những gì » quan trọng cần nên đem ra thực hành.

Đạt được sự tu tập hoàn hảo sẽ đem đến cho ta khả năng giúp đỡ được mọi sinh linh tùy theo trình độ của họ. Sự hoàn hảo đó là hiện thân của Quán Thế Âm, và chính vì vậy, ta nên tuân theo văn bản này : « Tôi xin Quy y nơi Ngài, không phải cho ngày hôm nay mà thôi, nhưng cho mãi mãi về sau, và không phải chỉ Quy y bằng cửa miệng tôi, mà bằng cả ba cửa ngõ của thân tôi… Tôi xin tôn kính và quỳ lạy Ngài…».

Tất cả phúc hạnh và tất cả an bình đều xuất phát từ những nghiệp « trắng », tức là từ những nghiệp tạo dựng bằng sự tích lũy các hành động đúng đắn ; để nhắc lại thêm một lần nữa, con đường duy nhất phải theo là con đường giúp loại bỏ tất cả sai lầm trong hành vi, trong lời nói và cả trong tình cảm của ta. Tsong Khapa (1) có nói : « Dù cho thân xác tôi và sự sống của tôi có tiêu tan, và nếu như tiêu tannguyên do tu tập Đạo Pháp, tôi vẫn cầu mong, dù bất cứ điều gì xảy ra, xin cho tôi vẫn cứ tiếp tục tu tập Đạo Pháp ».

Ngoài những giờ học tập (Đức Đạt-Lai Lạt Ma quay sang nói với những người thế tục), quý vị hãy cố gắng sống thật đạo đức trong những ngày quý vị còn lưu lại nơi đây, tại Bodh Gaya (Chánh Giác sơn) này. Theo tập quán, nên đi tản bộ chung quanh các tháp xá lợi ; trong lúc đi hãy tìm cách khơi động trong tâm thức ước vọng đạt được Bồ-đề tâm. Tập « Nhập Bồ-đề hành Kinh » (Bodhicharyâvatâra) có nói : « Rộng lớn như địa cầu và các thành phần vĩ đại, mênh mông

1- Tsong Khapa : Tông khách-ba (1357-1419) là một vi Lạt-Ma Tây Tạng, sáng lập tông phái Cách-lỗ (Guelugpa). Ngài là một đại sư nổi danh đã để lại nhiều trước tác quan trọng.

như không gian bao la, tôi cầu mong, vì vô số chúng sinh, xin được hoá làm cơ sở sinh động của yêu thương ! ». Lời nguyện cầu này cất lên khi đi quanh các tháp xá lợi, sẽ rất hiệu quả. Hãy hình dung ra con người của Phật, quán tưởng đến Ngài, nghĩ đến những lời giáo huấn của Ngài, tình thương tràn đầy từ bi của Ngài và hãy tự nguyện noi theo con đường của Ngài đã đi. Sức mạnh phát hiện từ sự thúc đẩy ấy sẽ còn được gia tăng thêm nữa về sau này.

(Tiếp đó, Đức Đạt-Lai Lạt-Ma hướng về các người tu hành và nói :) Rút lui vào tu viện, khoác lên người chiếc áo nhà sư, chăm lo các nghi lễ thượng thặng pûjâ (1) theo đúng như tập tục Tan-tra, các điều ấy chứng tỏ như ta đang tu tập Đạo Pháp, nhưng nếu tâm thức bị xao lãng bởi những thứ vụn vặt bên ngoài của thế tục, thì nhất định không có gì gọi là tu tập Đạo Pháp cả. Lắm khi trong lúc thi hành đại lễ pujâ, tôi vẫn thấy chung quanh tôi có nhiều người đang xao lãng, rõ ràng là họ đang chìm đắm trong những lo âu thế tục, nhưng bên ngoài vẫn có vẻ như rất nghiêm trang, tôi nghĩ rằng : « Thật là thảm thương cho họ ! » rồi tôi cũng cảm thấy nản lòng. Tu tập Đạo Pháp không phải chỉ tùy thuộc vào vẻ bên ngoài, nhưng đúng hơn phải từ nơi tâm thức của ta, từ sự thúc đẩy bên trong ta. Tâm thức phải thoát khỏi những suy tư phù phiếm, phải tinh khiếthoàn toàn cống hiến cho sự tu tập ; được như thế thì dù chỉ một giờ cũng quý báu.

Vậy thì một người già nua, ốm đau và không còn khả năng nào nữa, cũng đừng thối chí và phải cố gắng tùy theo sức mình ; tất cả những gì may mắn đang mời mọc chúng ta…,và tại sao lại gọi là may mắn ? Chỉ vì chúng ta có được cái thân xác « quý giá » này của con người.

(Ngài nói với tất cả mọi người :) Vậy thì, khi ta có được cơ hội tốt đẹp này, cái may mắn này, cái thân xác thuận lợi này, những giây phút nhàn hạ này, thời gian của những điều kiện thuận lợi ấy phải được tận dụng tối đa, bằng cách tận lực

1- Pûjâ : là các nghi lễ, cách tụng niệm man-tra, bắt ấn, v.v.

phát động những cố gắng đạt đến Niết bànBồ-đề tâm, vì sự an vui của tất cả chúng sinh. Cố gắng của ta để hoàn thành mục đích đem lại an lành cho tất cả chúng sinh phải liên tục như một giòng sông. Phương pháp tốt nhầt là trước hết phải học hỏi để thấu triệt những gì cần phải biết, tiếp đó là thiền định về những điều giáo huấn ấy của Đại thừa, đặt suy tư vào đó, phân tích những gì đã học, đào sâu cho đến lúc hiểu thấu một cách vững chắc, sau cùng là tập trung vào những hiểu biết trong sángvững chắc đã quán nhận được. Ta có thể luân phiên tập luyện đồng đều giữa cách thiền định bằng phân giải, và cách thiền định yên lặng chú tâm vào một điểm. Xuyên qua cách thực thi thiền định như thế, ta sẽ đạt được một kinh nghiệm trực giác. Tóm lại, trước hết phải học cái đã, nhưng học vẫn chưa đủ ; phải suy tư và phân tích, và sau hết là thiền định bằng cách tập trung. Như thế ta mới gặt hái được kết quả. Ta không nên tách rời ba cách thực tập ấy, nhưng phải thực hành luân phiên nhau.

Nghiên cứu Đạo Pháp không giống như nghiên cứu bất cứ một ngành khoa học nào cả, như lịch sử chẳng hạn. Tu tập Đạo Pháp đòi hỏi phải đem ra ứng dụng những phương pháp liên quan đến Đạo Pháp, và như thế chính là cách tu tập của những người Bồ-tát.

Hoang Phong dịch

(Giáo Huấn của Đức Đạt Lai Lạt Ma)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12207)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15327)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16618)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12231)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11497)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14282)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 24622)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10705)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
(Xem: 12508)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10399)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12359)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11664)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 12065)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13020)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11455)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 17456)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 21413)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10686)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19261)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12428)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26057)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 14394)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 13738)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16856)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17598)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13141)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12545)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11619)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11631)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 20494)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 19001)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19595)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18672)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 15047)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15048)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 14003)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15532)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 14571)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 15861)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12896)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18437)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
(Xem: 15791)
Luận Văn Tổng Quát Về Đại Thừa do HT. Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 11093)
Nguyên tánh chân nhưlặng lẽsáng suốt không có gì gọi là chúng sanh (ngã), vũ trụ (pháp)...
(Xem: 53698)
Mông Sơn Thí Thực là một nghi thức đã được sử dụng rất phổ cập trong các ngôi Già lam thuộc hệ phái Phật giáo Bắc tông. Có ba loại nghi thức Mông Sơn: Đại Mông Sơn, Trung Mông Sơn và Tiểu Mông Sơn.
(Xem: 13009)
Bồ-tát Mã Minh tạo luận, Tam tạng pháp sư Chân Đế dịch Hán. HT Thích Trí Quang dịch giải Việt
(Xem: 16547)
Các phương thuốc của thế giới này, đa dạng và nhiều vô kể, thế nhưng chẳng có một phương thuốc nào có thể sánh với Đạo Pháp.
(Xem: 15423)
Tạng Luật được hình thành từ những điều luật được đặt ra để chỉnh đốn đạo đức tác phong của chúng đệ tử Đức Phật...
(Xem: 19961)
Tại Na-lan-Đà có một phái tu khổ hạnh, vị đứng đầu là Ni-kiền Thân-Tử, ông có cả nghìn đệ-tử, và có người tôn xưng ông là bậc Thánh...
(Xem: 15581)
Được HT Thích Tuệ Sỹ dịch theo bản Sanskrit, do Nhà xuất bản Phương Đông ấn hành năm Quý Mùi.
(Xem: 15367)
Tiếng Phạn “Sa Di”, ở đây dịch là Tức Từ, ý nói: Dứt ác, hành điều từ, dứt nhiễm ô thế giantừ bi cứu giúp chúng sanh. Còn dịch là Cần Sách, hoặc dịch là Cầu Tịch.
(Xem: 15161)
“Sau khi ta diệt độ, nên tôn trọng, kính quý Ba La Đề Mộc Xoa (Giới) như tối tăm gặp ánh sáng, như nghèo khó được của báu."
(Xem: 10404)
Với Phật giáo, toàn bộ nội dung tư tưởng Phật dạy là lấy con người làm gốc, gắn bó mật thiết với đời sống nhân quần xã hội...
(Xem: 20371)
Đức Phật dạy rằng, người nào sống không giới luật, tuy ở gần ta mà cũng như cách xa ta muôn dặm; người nào sống có giới luật, tuy ở xa ta muôn dặm mà cũng như ở cạnh bên ta.
(Xem: 15515)
Trẫm từng nói: Phật pháp chia ra Đại thừa, Tiểu thừa là việc thuộc về bên tiếp dẫn. Kỳ thật mỗi bước Tiểu thừa đều là Đại thừa, mỗi pháp Đại thừa chẳng lìa Tiểu thừa.
(Xem: 13067)
Tất cả nam nữthế gian giàu sang hay nghèo hèn, chịu khổ vô cùng hoặc hưởng phước vô lượng đều do nghiệp nhân gieo tạo đời trước mà cảm thọ quả báo hiện tại.
(Xem: 20175)
“Nhất thiết hữu vi pháp; Như mộng, huyễn, bào, ảnh; Như lộ diệc như điện; Ưng tác như thị quán.”
(Xem: 13303)
Thành thật luận (Satyasiddhi-sastra) do Ha-lê-bat-ma tạo luận, Cưu-ma-la-thập dịch Hán, Nguyên Hồng dịch Việt, thâu lục trong Đại chính, Đại Tạng Kinh số No 1647.
(Xem: 29038)
Chân Như Quan Của Phật Giáo (Ðặc biệt lấy Bát-Nhã làm trung tâm) Nguyên tác: Kimura Taiken; Việt Dịch: HT. Thích Quảng Độ
(Xem: 11731)
Nguyện cầu hồng ân Tam bảo gia hộ cho toàn thể quý học chúng Bồ tát giới tại gia, có đầy đủ bi trí lực để hoàn thành bản nguyện tự lợi, lợi tha, trong khung trời giải thoát tự tại của chánh pháp Như Lai.
(Xem: 18326)
Tôi được Tăng sai phụ trách hướng dẫn Bồ tát Học xứ cho chúng Giới tử tân thọ Bồ tát giới...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant