Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chuẩn Mực Đạo Đức Của Phật Giáo

12 Tháng Sáu 201413:27(Xem: 10387)
Chuẩn Mực Đạo Đức Của Phật Giáo

CHUẨN MỰC ĐẠO ĐỨC CỦA PHẬT GIÁO

Phước Tâm dịch

blankĐạo đức là một trong những hình thái ý thức xã hội, có khả năng duy trì kỷ cương quốc gia, khiến quốc gia không rối loạn, bảo vệ an toàn cho đời sống nhân dân, xã hội. Lễ giáoTrung Quốc xưa kia lập ra, gọi là “tứ duy bát đức”(1), nhân luân “ngũ thường”, đều là kỳ vọng xây dựng nên một quốc gia thái bình thịnh thế “trung thứ nhân nghĩa” và phép tắc trật tự.

Với Phật giáo, toàn bộ nội dung tư tưởng Phật dạy là lấy con người làm gốc, gắn bó mật thiết với đời sống nhân quần xã hội, như Phật đà từng hướng dẫn phép trị nước cho các vị vua Tần-bà-sa-la, Ba-tư-nặc, A-xà-thế…, đó là “đạo đức chính trị”; Ngài giảng dạy và truyền thụ những nguyên tắc sống chung trong cùng một gia đình cho Thiện Sinh Tử, Ngọc Da Nữ, chính là “đạo đức gia đình”; Phật đà từng dùng thi kệ khuyên dạy cách tiêu xài đồng tiền, đại để nói rằng: vốn liếng, của cải kiếm được của mình nên chia làm bốn phần, một phần gọi là phí dụng hàng ngày trong gia đình, một phần dự trữ để dự phòng nhỡ có xảy ra bất trắc gì, một phần giúp đỡ bà con quyến thuộc hay những thân hữu, một phần bố thí vun đắp phước đức”, chỉ dẫn người đời sử dụng đồng tiền đúng đắn, chính là “đạo đức của cải”.

Chuẩn mực đạo đức Phật giáo, bao hàm các quy phạm luân lý của thế gian, cả đến tu hành thánh hiền xuất thế gian. Nay lược bàn chuẩn mực đạo đức Phật giáo như sau:

Ngũ giới, Thập thiện

Ngũ giới của Phật giáo là “đạo đức căn bản” làm người, nên phải tuân thủ giữ gìn; Thập thiện là “đạo đức tăng thượng” tịnh hóa nội tâm, thăng hoa nhân cách; nhân quả nghiệp báo là “đạo đức thiện ác” bất biến của thế gian. Hình phạt nghiêm khắc, cố nhiên có thể nhận được tác dụng tích cực nhất thời, nhưng vốn không phải là cách làm rốt ráo. Phật giáo lấy Ngũ giới, Thập thiện xem là chuẩn mực đạo đức nhân bản, khởi xướng “chớ làm các việc xấu, hãy làm những việc tốt”, không xâm phạm thân thể, tiền của, danh dự, tôn nghiêm của người khác, sửa đổi triệt để lòng người, khiến nhân luân cương thườngtrật tự, làm cho nếp sống xã hội trở nên lương thiện. Ngũ giới, Thập thiện chính là chuẩn mực đạo đức của Phật giáo.

Giúp đời lợi người

Chư Phật, Bồ tát tùy loại ứng hóa, lợi ích chúng sinh, tinh thần giúp đời lợi người, chính là chuẩn mực phù hợp với Phật giáo. Ở mọi ngành nghề cũng cần có lòng cứu đời giúp người, giống như thầy/cô giáo cần phảitrách nhiệm “giảng dạy, truyền đạt kiến thức, giải thích các vấn đề nghi hoặc”; nhân viên điều dưỡng cần có đạo đức cứu đời “thị bệnh như thân, cứu nhân nhất mạng”; công nhân cần tích cực làm việc, lấy sản xuất báo ơn quốc gia; thương nhân cần mua bán kinh doanh hợp pháp, không được lấy của cải không phải của mình; quân nhân vì bảo vệ sự an toàn cho nhân dân toàn quốc, phải anh dũng chiến đấu, chống lại sự xâm lược của kẻ thù. Cũng chính là, mỗi một người, có thể xả bỏ sự cố chấp ích kỷ, noi theo tinh thần cổ đức tiên hiền, tức “lo trước nỗi lo của thiên hạ, vui sau niềm vui của thiên hạ”, hay tinh thần Bồ tát “nếu còn một người chưa độ, thì bản thân nhất định không được lẩn trốn”, để giúp đời lợi người. Giúp đời lợi người chính là chuẩn mực đạo đức của Phật giáo.

Bát nhã không tuệ

Bồ tát lấy Lục độ(2) làm chiếc thuyền để tự độ và độ người. Điều mà người ta gọi là “Ngũ độ(3) như mù, Bát nhã như mắt sáng”, nghĩa là, chúng ta nếu khôngbát nhã trí tuệ nhạy bén, thì cho dù có hành trì (Ngũ độ) bao nhiêu, vẫn là nằm trong vòng phước báo hữu vi không sao tránh khỏi năm biểu hiện của tướng suy(4), không phải là con đường giải thoát niết bàn chân chính. Ví dụ, sự bố thí của Phật giáo là muốn con người học tập buông bỏ tư niệm bủn xỉn, keo kiệt, nhưng nơi đến bố thí, cần phải thanh tịnh, không được vi phạm pháp luật nhà nước, đồng thời người bố thí tâm không kiêu căng, ngạo mạn, người được nhận phải biết cám ơn, là sự bố thí thanh tịnh “năng thí, sở thí và vật thí, vô sở đắc - không mong cầu trong tam thế - quá khứ, hiện tại và tương lai; tâm tối thắngchúng ta an trú, cúng dường tất cả mười phương Phật”. Ngoài ra, trì giới không sát sinh, không nói dối, không tà dâm, không trộm cắp, không uống rượu, v.v… cố nhiên là giáo pháp của Phật (Phật pháp), nhưng “giết một cứu một trăm”(5) của Phật đà, “uống rượu cứu người”(6) của phu nhân Mạt-lợi, chuyện “xử lý (tình huống) ở rể”(7) của Hòa thượng Nhất Hưu, “đốt Phật sưởi ấm”(8) của Thiền sư Đan Hà, “dạy tên trộm cách ăn trộm”(9) của Thiền sư Thạch Ốc, v.v…, cũng đều là Phật pháp. Từ bi dịu dàng cũng là Phật pháp, nhưng những tiếng va đập chát chúa của gậy, tiếng quát mắng, tiếng nện gõ của chiếc kìm, khiến cho học tăng tiệt đoạn vọng tưởng (mơ mộng hão huyền), nhận biết bản lai diện mục (diện mạo vốn có), cũng là từ bi. Vì vậy, Phật pháp, có lúc không phải là Phật pháp; không phải là Phật pháp, có lúc lại là Phật pháp. “Bát nhã không tuệ” của Bồ tát, có khả năng làm cho chúng ta bố thí mà vẫn hỷ xả không nghĩ đến sự bố thí, trì giớikhông chấp vào giới tướng, nhẫn nhục xa rời ngã chấp, tinh tiến không sinh kiêu mạn, tu thiền không lưu luyến định cảnh.

Kinh Kim Cang nói: “Tâm Bồ tát hành bố thí mà không trụ ở pháp, như người có mắt, nhật quang chiếu rọi, thấy muôn vàn sắc màu”. Đã có Bát nhã không tuệ tợ đôi mắt sáng rồi, thì việc ứng xử tự nhiênthể không còn tâm so sánh “bạn lớn tôi nhỏ, bạn có tôi không, bạn sướng tôi khổ” nữa; Bát nhã không tuệ cũng giống như “từ mẫu” (người mẹ hiền), đối đãi tất cả chúng sinh như những đứa con ruột thịt, đối với những khó khăn gian khổ ấy tự nhiên có sự đồng cảm không lìa xa; Bát nhã cũng giống như “ánh sáng” trong căn phòng tăm tối, có thể chiếu soi màn đêm vô minh đang cư ngụ trong con tim diệu vợi của chúng ta, làm tan biến những đối xử phân biệt, tâm không bị khổ lạc làm nao núng, chuyển phàm tình (tình cảm thế gian) chấp trước thành tình yêu rộng lớn (từ bi) đối với chúng sinh. Bát nhã có khả năng tịnh hóa tư tưởng của chúng ta, nâng cao đạo đức của chúng ta, một khi có Bát nhã không tuệ, thì vui-khổ là đồng thể, sạch-nhơ là nhất như, giàu-nghèo có thể tự tại, có-không có thể bình đẳng, như trong kinh Bát Đại Nhân Giác nói: “Tâm niệm luôn biết đủ, an vui cảnh nghèo giữ đạo, lấy trí tuệ làm sự nghiệp”. Hàng phục tâm ấy (kỳ tâm) như thế bằng Bát nhã không tuệ, “tất cả muôn loài chúng sinh, đều khiến đi vào Vô dư Niết bàn mà diệt độ”. Bát nhã không tuệ đích thực là chuẩn mực đạo đức của Phật giáo.

Chuẩn mực đạo đức của Phật giáo, lấy quy tắc (quy phạm) Ngũ giới Thập thiện, hoàn thiện nhân cách; lấy việc cứu đời giúp người của thánh hiền, để thăng hoa đạo đức; lấy Bát nhã không tuệ của Bồ tát, để minh tâm kiến tánh. Thêm nữa, trong cuộc sống hiện thực, tam học giới định tuệ, bốn loại chính niệm, tám loại chính đạo, cũng là lương dược có khả năng trị liệu căn bệnh thâm căn cố đế tham lamsân hận của chúng ta, có khả năng khiến cho thân tâm chúng ta thanh tịnh, đạo đức đạt đến viên mãn. Luận một cách ngắn gọn rằng, phàm xuất phát tình yêu rộng lớn từ lợi ích cộng đồng, đồng thời không đi ngược với lễ pháp (phép tắc, kỷ cương) của thế giantinh thần đại thừa nhiêu ích hữu tình của Bồ tát, thì đều phù hợp với chuẩn mực đạo đức của Phật giáo. Ví dụ: Bố thí kết duyên, không nhớ nghĩ điều ác cũ, hổ thẹn mỹ đức, giữ gìn lục căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý), “bạn chưa mời mà tự đến”(10), phương tiện quyền xảo, lợi lạc hữu tình (làm lợi ích cho chúng sinh), phổ đồng cúng dường (cúng dường, bố thí rộng khắp cho tất cả chúng sinh), bốn ơn phải báo đáp(11), hoằng pháp lợi sinh, tôn trọng bao dung, tâm ý dịu dàng ôn hòa, ái ngữ ngợi khen, giữ gìn chính niệm, v.v..., đều là chuẩn mực đạo đức thanh tịnh thiện mỹ của Phật giáo. Ngoài ra, học tập đại từ, đại bi, đại trí, đại nguyện, đại hạnh của Phật và Bồ tát, phát Bồ đề tâm, không quăng bỏ sự cứu độ chúng sinh đang trôi lăn trong ngũ nghịch(12) thập ác(13), đây chính là đạo đức viên mãn, cứu cánh nhất của Phật giáo. 

(Theo Tinh Vân, Phật học giáo khoa thư, Nxb. Từ Thư Thượng Hải, 2008, tr.97-99)

---------------

Các chú thích 5, 6, 7, 8 và 9 là của nguyên tác. Phần chú thích còn lại, là do người dịch thêm vào.

(1) Tứ duy, chỉ: lễ, nghĩa, liêm và sỉ; Bát đức, chỉ: trung, hiếu, nhân, ái, tín, nghĩa, hòa và bình.

(2) Lục độ gồm: Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tiến, thiền định và bát nhã/trí tuệ.

(3) Ngũ độ gồm: Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tiếnthiền định

(4) Thiên nhân lúc sắp chết, thì hiện ra năm tướng suy. Về thuật ngữ này, trong kinh luận Phật giáo thấy có nhiều thuyết khác nhau. Ở đây, chúng tôi chỉ dựa vào kinh Niết bàn liệt kê năm tướng suy đó như sau: Một là, y thường cấu nhị, tức y phục dơ bẩn; hai là, đầu thượng hoa ủy, tức cái mũ hoa trên đầu khô héo; ba là, thân thể xú uế, tức thân thể có mùi hôi; bốn là dịch hạ hãn xuất, tức nách chảy mồ hôi; năm là, bất lạc bổn tọa, tức chỗ ngồi không vui.

(5) Xem Sát thân tế cổ kinh trong Lục độ tập kinh.

(6) Xem Chân chính đích giới luật trong “Tu tiễn sinh mệnh đích hoang vu”, Thời báo Văn hóa xuất bản, tr.140,

(7) Xem Tinh Vân Thiền thoại (tập 2), Phật Quang Văn Hóa xuất bản, tr.84.

(8) Xem Cảnh đức truyền đăng lục, quyển 14 in trong Thiền tạng thuộc Phật Quang đại tạng kinh, tr.733.

(9) Xem Tinh Vân Thiền thoại (tập 1), Phật Quang Văn Hóa xuất bản, tr.160.

(10) Nguyên văn là Bất thỉnh chi hữu - 不請之友, ý ví như chư Bồ tát, chúng sinh khi gặp nạn chưa kịp khẩn cầu, nhưng các Ngài vì lòng thương yêu rộng lớn mà đến hóa độ, trao truyền thiện pháp.

(11) Chúng ta sinh tồnthế gian này, những ơn đứcchúng ta tiếp nhận, chủ yếu có bốn loại: ơn cha mẹ, ơn chúng sinh, ơn quốc gia, và ơn Tam bảo, hợp lại gọi chung là Tứ ân tổng báo, tức bốn ơn đó cần báo đáp.

(12) Ngũ nghịch là tội nặng nhất trong tất cả ác nghiệp của Phật giáo. Nghịch, nghĩa là trái với luân thường đạo lý, tội cực lớn. Năm tội ấy được Phật liệt kê như sau: Giết cha, giết mẹ, giết bậc A-la-hán, làm thân Phật chảy máu, phá hoại hòa hợp Tăng. Người mắc năm tội này, sẽ rơi vào Vô gián địa ngục (cũng gọi là Địa ngục A-tỳ).

(13) Thập ác gồm: (1) sát sinh, (2) thâu đạo (trộm cắp), (3) tà dâm, (4) vọng ngữ, (5) lưỡng thiệt, tức nói lời ly gián, lời không có tính xây dựng, (6) ác khẩu, tức ác ngữ, ác mạ, chửi bới, (7) ỷ ngữ, tức lời tạp uế, (8) tham dục, (9) sân nhuế (sân hận/căm ghét), (10) tà kiến, tức cái nhìn lệch lạc.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10298)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12184)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15304)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16606)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12212)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11472)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14267)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 24605)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10679)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
(Xem: 12493)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10367)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12333)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11640)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 12047)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13005)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11442)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 17438)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 21387)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10677)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19234)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12403)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26034)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 14375)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 13726)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16827)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17571)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13114)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12517)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11606)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11599)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 20462)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 18987)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19559)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18648)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 15024)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15035)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13987)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15508)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 14552)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 15846)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12870)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18417)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
(Xem: 15764)
Luận Văn Tổng Quát Về Đại Thừa do HT. Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 11080)
Nguyên tánh chân nhưlặng lẽsáng suốt không có gì gọi là chúng sanh (ngã), vũ trụ (pháp)...
(Xem: 53658)
Mông Sơn Thí Thực là một nghi thức đã được sử dụng rất phổ cập trong các ngôi Già lam thuộc hệ phái Phật giáo Bắc tông. Có ba loại nghi thức Mông Sơn: Đại Mông Sơn, Trung Mông Sơn và Tiểu Mông Sơn.
(Xem: 12982)
Bồ-tát Mã Minh tạo luận, Tam tạng pháp sư Chân Đế dịch Hán. HT Thích Trí Quang dịch giải Việt
(Xem: 16528)
Các phương thuốc của thế giới này, đa dạng và nhiều vô kể, thế nhưng chẳng có một phương thuốc nào có thể sánh với Đạo Pháp.
(Xem: 15405)
Tạng Luật được hình thành từ những điều luật được đặt ra để chỉnh đốn đạo đức tác phong của chúng đệ tử Đức Phật...
(Xem: 19940)
Tại Na-lan-Đà có một phái tu khổ hạnh, vị đứng đầu là Ni-kiền Thân-Tử, ông có cả nghìn đệ-tử, và có người tôn xưng ông là bậc Thánh...
(Xem: 15554)
Được HT Thích Tuệ Sỹ dịch theo bản Sanskrit, do Nhà xuất bản Phương Đông ấn hành năm Quý Mùi.
(Xem: 15355)
Tiếng Phạn “Sa Di”, ở đây dịch là Tức Từ, ý nói: Dứt ác, hành điều từ, dứt nhiễm ô thế giantừ bi cứu giúp chúng sanh. Còn dịch là Cần Sách, hoặc dịch là Cầu Tịch.
(Xem: 15146)
“Sau khi ta diệt độ, nên tôn trọng, kính quý Ba La Đề Mộc Xoa (Giới) như tối tăm gặp ánh sáng, như nghèo khó được của báu."
(Xem: 20334)
Đức Phật dạy rằng, người nào sống không giới luật, tuy ở gần ta mà cũng như cách xa ta muôn dặm; người nào sống có giới luật, tuy ở xa ta muôn dặm mà cũng như ở cạnh bên ta.
(Xem: 15494)
Trẫm từng nói: Phật pháp chia ra Đại thừa, Tiểu thừa là việc thuộc về bên tiếp dẫn. Kỳ thật mỗi bước Tiểu thừa đều là Đại thừa, mỗi pháp Đại thừa chẳng lìa Tiểu thừa.
(Xem: 13037)
Tất cả nam nữthế gian giàu sang hay nghèo hèn, chịu khổ vô cùng hoặc hưởng phước vô lượng đều do nghiệp nhân gieo tạo đời trước mà cảm thọ quả báo hiện tại.
(Xem: 20142)
“Nhất thiết hữu vi pháp; Như mộng, huyễn, bào, ảnh; Như lộ diệc như điện; Ưng tác như thị quán.”
(Xem: 13284)
Thành thật luận (Satyasiddhi-sastra) do Ha-lê-bat-ma tạo luận, Cưu-ma-la-thập dịch Hán, Nguyên Hồng dịch Việt, thâu lục trong Đại chính, Đại Tạng Kinh số No 1647.
(Xem: 29026)
Chân Như Quan Của Phật Giáo (Ðặc biệt lấy Bát-Nhã làm trung tâm) Nguyên tác: Kimura Taiken; Việt Dịch: HT. Thích Quảng Độ
(Xem: 11709)
Nguyện cầu hồng ân Tam bảo gia hộ cho toàn thể quý học chúng Bồ tát giới tại gia, có đầy đủ bi trí lực để hoàn thành bản nguyện tự lợi, lợi tha, trong khung trời giải thoát tự tại của chánh pháp Như Lai.
(Xem: 18298)
Tôi được Tăng sai phụ trách hướng dẫn Bồ tát Học xứ cho chúng Giới tử tân thọ Bồ tát giới...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant