Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phẩm Tuyên Chiếu (Ph 9)

21 Tháng Năm 201000:00(Xem: 6277)
Phẩm Tuyên Chiếu (Ph 9)

LƯỢC GIẢNG
KINH PHÁP BẢO ĐÀN

Hoà Thượng Tuyên Hoá Giảng tại Vạn Phật Thánh Thành Hoa Kỳ

 

Phẩm Tuyên Chiếu Đệ Cửu

 

Niên hiệu Thần Long năm đầu, vào ngày rằm Thượng ngươn, Tắc Thiên Hoàng Thái HậuTrung Tông Hoàng Đế ra lời chiếu rằng: 

"Trẫm thỉnh An, Tú nhị vị Đại sư vào cung đặng cúng dường, mỗi khi rảnh việc thì nghiên cứu về Nhất thừa. Nhưng hai Sư đều nhượng rằng: ‘Ở phương NamHuệ Năng Thiền sư được mật thọ y pháp của Hoằng Nhẫn Đại sư. Ấy là người truyền tâm ấn của Phật. Vậy nên thỉnh người mà hỏi Đạo.’ Nay sai nội thị là Tiết Giản mang chiếu nghinh thỉnh, xin Tổ Sư từ bi niệm tình mau đến Kinh-đô."

Giảng:

Thần Long là niên hiệu của Đường Trung Tông, thượng nguyên nhựt tức là tiết nguyên tiêu ngày mười lăm tháng giêng. Ngày mười lăm tháng bảy gọi là Trung nguyên nhựt. Võõ Tắc Thiên là nữ Hoàng đế đời Đường, rất sùng tínủng hộ Phật giáo, nhưng vị nữ Hoàng đế này không có giữ gìn quy củ, bất cứ việc gì bà cũng dám làm, nhưng bà lại có lòng tin đối với Phật giáo vì thế bà đều thỉnh các Đại đức Cao Tăng đương thời vào hoàng cung cúng dường.

Trung Tông là con của Võõ Tắc Thiên, lên ngôi không bao năm, Võõ Tắc Thiên liền biếm chức cho làm Lỗ Lăng Vương, và tự mình tức vị, lên làm Hoàng đế. Bà hạ chiếu thư, viết:

–Trẫm đã cung thỉnh Huệ An Thiền sư ở Tung Nhạc và Bắc Tông Thần Tú Đại sư vào hoàng cung cúng dường. Sau khi xử lý muôn ngàn việc quốc sự nặng nề, giờ rảnh ra trẫm thường nghiên cứu pháp môn đốn giáo. Nhưng hai vị Pháp sư này đều nhường nói: "Đạo đức của chúng tôi không bằng Đại sư Huệ Năng ở Quảng Đông Nam phương. Huệ Năng Đại sư là người mật thọ y bát của Ngũ Tổ Đại sư Hoằng Nhẫn, là người kế thừa chân chánh Pháp môn truyền Phật tâm ấn, vì vậy nên mời Huệ Năng Đại sư đến học hỏi." Và vì thế mà nay trẫm phái nội thị trong cung (tức Thái giám trong cung), tên gọi Tiết Giản, mang chiếu thư của Hoàng đế đến cung thỉnh Đại sư. Kính mong Đại sư thương xót chúng sanh mau chóng đến Kinh đô – Trường An.

Sư dâng sớ cáo bịnh xin từ, nguyện trọn đời ở chốn rừng non.

Tiết Giản bạch: "Ở Kinh-thành các vị Thiền đức đều nói rằng: Muốn đặng tâm ngộ Đại Đạo tất phải ngồi thiền tập định. Nếu chẳng nhờ thiền định mà đặng giải thoát, thì điều ấy chưa từng có, chẳng biết lời dạy của Tổ Sư như thế nào?"

Giảng:

Lục Tổ Đại sư viết một biểu chương, cũng chính là thư trả lời: "Tôi nhiều bệnh." Kỳ thực Lục Tổ Đại sư không có bệnh, đây chỉ là nói lời phương tiện, không phải nói lời vọng ngữ, tại sao vậy? Vì Lục Tổ Đại sư không muốn yết kiến Hoàng đế, nhất là không muốn yết kiến nữ Hoàng đế, huống chi bà lại không có chú ý đến việc quy củ, lại không giữ gìn giới luật, cho nên không vui gặp bà. Nhưng Lục Tổ không thể nói: "Bà là nữ Hoàng đế, tôi là Tổ Sư, tôi không cần phải yết kiến nữ Hoàng đế," cho nên cáo bịnh, thoái thác nói: "Tôi đã lớn tuổi, lại có nhiều bệnh, tôi nguyện suốt đời ở nơi rừng núi."

Đây là phẩm thứ chín, trong bổn chú thích của Đinh Phúc Bảo nói: Đây là Phẩm Hộ Pháp, là điều sai lầm, nên là "Phẩm Tuyên Chiếu." Tuyên tức là Hoàng đế thỉnh Lục Tổ Đại sư vào hoàng cung cúng dường, Chiếu tức là chiếu thư; tuyên đọc chiếu thư của Hoàng đế thỉnh Lục Tổ Đại sư đến Kinh đô, không thể gọi là Phẩm Hộ Pháp.

Tiết Giản nói:

–Các vị Đại đức ở Kinh Thành đều nói như thế này, nếu hành giả muốn hiểu rõ đạo pháp cần phải tọa thiền, tu tập định lực. Nếu không phải do thiền địnhđược giải thoát, đây là điều không bao giờ có. Con không biết Tổ Sư Ngài thuyết pháp như thế nào?

Đại sư nói: "Đạo do tâm mà ngộ, đâu phải do ngồi. Kinh nói: ‘Nếu nói Như Lai hoặc nằm hoặc ngồi là hành tà đạo. Bởi cớ sao? Không từ chỗ nào mà lại, cũng không từ chỗ nào mà đi.’ Không sanh không diệt là tánh Như Lai thanh tịnh thiền. Các pháp đều vắng lặng trống không là tánh Như Lai thanh tịnh tọa. Thế là cứu cánh không chứng đắc, hà huống là ngồi!"

Giảng:

Lục Tổ Đại sư tuy không biết chữ, nhưng những lời Ngài giảng ra, người tầm thường khó có thể ngộ đến. Ngài nói:

–Đạo là từ trong tâm ngộ, sao có thể chỉ là ngồi? Chỉ ngồi thì không thể được. Hiểu rõ, khai ngộ đạo lý Phật pháp, gọi là "giải." Ngồi là hành, nếu chỉ hành mà không giải, đó là ngu si. Nếu chỉ giải mà không hành, đó là khẩu đầu thiền. Cho nên hiểu rõ xong, thân cần phải nỗ lực thực hành, chớ không phải suốt ngày ngồi hoài, ngồi mấy chục năm, một chút đạo lý cũng không hiểu, tâm mình cũng không thể khai ngộ.

Kinh Kim Cang nói: "Nếu có người nói Như Lai, như đến, như đi, như ngồi, như nằm, thì người này không hiểu nghĩa của Ta nói. Tại sao vậy? Như Laivô sở tùng lai cũng vô sở khứ, cho nên gọi là Như Lai." Nếu nói Phật là ngồi hoài hoặc nằm hoài, đó là bàng môn ngoại đạo. Tại sao vậy? Vì Phật là vô sở tùng lai, cũng là vô sở khứ, Ngài cũng không sanh cũng không diệt, đó mới là Như Lai thanh tịnh thiền. Tất cả pháp vốn không tịch, đây là Như Lai thanh tịnh tọa. Cứu cánh thì không có chỗ chứng đắc, sao lại muốn ông ngồi hoài? Thường ngồi hoài cũng là một loại chấp trước.

Tiết Giản bạch: "Đệ tử về kinh, Chúa-thượng ắt hỏi. Xin Tổ Sư từ bi dạy chỗ yếu chỉ về tâm tánh, đặng truyền tấu lại lưỡng cung (Thái hậu và vua) cùng các vị học Đạo trong Kinh thành. Tỷ như một ngọn đèn mồi ra trăm ngàn ngọn, các chỗ tối đều sáng, sáng sáng không cùng."

Sư nói: "Đạo không sáng tối, sáng tối là cái nghĩa thay thế. Sáng sáng không cùng, cũng là có cùng. Hai cái tối sáng đối đãi nhau mà lập ra cái tên, cho nên kinh Tịnh Danh nói: ‘Pháp không có chi sánh, không có gì tương đối được.’"

Giảng:

Tiết Giản nói: 

–Khi đệ tử hồi kinh, Hoàng đế nhất định hỏi đệ tử, kính mong Đại sư phát đại từ bi, chỉ thị đạo lý quan trọng dùng tâm ấn tâm, khiến con trở về bẩm cáo Hoàng đế, và để cho những người học đạo trong Kinh thành đều biết. Giống như một ngọn đèn có thể châm mồi trăm ngàn ngọn đèn, khiến cho chỗ hắc ám cũng được quang minh, khiến cho ánh sáng quang minh không cùng không tận.

Lục Tổ Đại sư nói:

–Bổn thể của Đạo, cũng chính là bổn thể của tánh, không có minh, cũng không có ám, minh ám chỉ là ý nghĩa đối đãi. Minh đến thì ám đi, ám đến thì minh đi, minh thay thế cho cái ám này, ám thay thế cho cái minh này. Ông nghe nói "Minh minh vô tận," đó cũng là hữu tận. Tại sao vậy? Vì nó là pháp đối đãi, minh đối với ám, có đối đãi thì có hữu tận. Cho nên Kinh Duy Ma Cật nói: "Pháp thì không thể so sánh, nó là tuyệt đãi mà không phải tương đãi, là tuyệt đối mà không phải tương đối."

Tiết Giản bạch: "Sáng tỷ như trí huệ, tối tỷ như phiền não. Người tu hành nếu như không lấy trí huệ mà chiếu phá phiền não, thì nhờ đâu mà ra khỏi chỗ vô thủy sanh tử?"

Sư nói: "Phiền não tức là Bồ-đề, chẳng phải hai và chẳng phải khác nhau. Lấy trí huệ mà chiếu phá phiền não, là chỗ thấy hiểu của hàng Nhị thừa, là cái căn cơ của xe nai, xe dê. Bực đại trí thượng căn chẳng phải làm như vậy."

Giảng:

Tiết Giản nói: 

–Minh là ví dụ cho trí huệ, ám ví dụ cho phiền não. Tất cả người học đạo, nếu không dùng trí huệ phá tan tất cả phiền não, thì sanh tử từ vô thủy kiếp cho đến hôm nay nương vào cái gì mà có thể xuất ly?

Lục Tổ Đại sư trả lời:

–Phiền não tức là Bồ đề giác tánh, ông không nên đem phiền nãoBồ đề phân chia làm hai thứ, chúng nó thì không có sai khác. Nếu ông muốn dùng trí huệ chiếu tan phiền não, đây là kiến giải của Nhị thừa – Thinh văn, Duyên giác, không phải là nhứt Phật thừa của Đại thừa. Thinh văn Duyên giác giống như cơ duyên của xe dê, xe nai, mà trí huệ tối thượng thừachúng sanh căn tánh tối thượng, phương pháp tu hành của họ hoàn toàn không phải như thế.

Tiết Giản bạch: "Chỗ thấy hiểu của bực Đại thừa như thế nào?"

Sư nói: "Sáng và không sáng, người phàm thấy có hai, còn người trí rõ thông, thấy cái tánh sáng và không sáng chẳng phải là hai. Cái tánh không hai chính là Thật tánh. Cái Thật tánh ở nơi phàm phu mà chẳng bớt, ở nơi Hiền Thánh mà chẳng thêm, ở nơi phiền não mà chẳng rối, ở nơi cảnh thiền định mà không lặng, chẳng đoạn chẳng thường, chẳng lại chẳng đi, chẳng phải ở giữa, ở trong hay ở ngoài, chẳng sanh chẳng diệt; tánh và tướng đều như như, thường trụ, không dời đổi. Cho nên gọi cái Thật tánh là Đạo."

Giảng:

Tiết Giản nói:

–Cái gì là kiến giải Đại thừa?

Lục Tổ Đại sư trả lời:

–Minh và vô minh, kẻ phàm phu xem đó là hai loại khác nhau, nhưng người có trí huệ thì hiểu rõ tánh của nó không có hai thứ, là tánh vô nhị, đó là Thực tánh. Cái gì gọi là Thực tánh? Chính là trong chúng sanh ngu muội, nó không giảm; trên địa vị người thánh nhân, nó cũng không tăng. Trong cảnh giới phiền não nó không loạn, lúc thiền định nó cũng không có tịch tĩnh. Nó là cũng động cũng tịnh, cũng tịnh cũng động, không đoạn cũng không thường, không đến cũng không đi, không ở chính giữa, không ở bên trong, không ở bên ngoài, không sanh không diệt, tánh cũng như như, tướng cũng như như, tánh tướng đều là nhứt thể. Nó là thường trụ không động, vì thế đặt tên cho nó là "Đạo."

Tiết Giản bạch: "Đại sư nói cái lý chẳng sanh chẳng diệt, trong đó có chỗ nào khác với cái thuyết của ngoại đạo chăng?"

Sư nói: "Cái sở thuyết của ngoại đạo nói rằng chẳng sanh chẳng diệt, là đem cái diệt dứt cái sanh, lấy cái sanh mà bày rõ cái diệt, nhưng diệt mà cũng như chẳng diệt, sanh mà nói chẳng sanh. Còn ta nói chẳng sanh chẳng diệt, nghĩa là cái tánh Bổn-lai vốn tự không sanh, nay cũng chẳng diệt, cho nên cái thuyết sanh diệt của ta chẳng giống với cái thuyết sanh diệt của ngoại đạo. Ông muốn biết chỗ yếu chỉ của tâm, thì đừng suy tính đến cả thảy các điều thiện ác. Như thế, tự nhiên đặng vào cái tâm thể trong sạch, phẳng bằng vắng lặng, diệu dụng vô cùng."

Giảng:

Tiết Giản hỏi: 

–Đại sư thuyết bất sanh bất diệt, cùng với ngoại đạo nói ra đâu cái gì sai khác?

Lục Tổ Đại sư trả lời:

–Ngoại đạo nói bất sanh bất diệt, diệt rồi thì không sanh, đình chỉ cái sanh, lấy sanh để hiển diệt, cho nên nói sanh diệt là hai thứ. Tuy nói nó diệt, nhưng không phải chân diệt. Tuy tiếp tục sanh, nhưng nói không sanh. Còn tôi nói bất sanh bất diệt, là bổn lai nó không có sanh, cho nên nay nó cũng không có diệt; vì vậy, tôi nói bất sanh bất diệt thì không giống với lời nói của ngoại đạo. Ông muốn biết tánh quan trọng của tâm địa pháp môn, truyền tâm diệu pháp thì không nên suy tính nghĩ tưởng tất cả thiện và tất cả ác, lúc đó ông tự nhiên sẽ hiểu rõ đạo lý này, mà đắc nhập tâm thể thanh tịnh vốn có – nó là vĩnh viễn trạm nhiên thanh tịnh, mà không phải tạm thời thanh tịnh. Tuy nó là trạm nhiên thường tịch, nhưng trong Chân không của nó có Diệu hữu, công dụng vi diệu của nó còn nhiều hơn hằng hà sa số.

Tiết Giản nhờ Đại sư chỉ dạy, hoát nhiên đại ngộ, làm lễ từ giả về kinh đô, dâng biểu các lời Đại sư giảng dạy.

Ngày mồng ba tháng chín năm ấy, có lời chiếu dụ rằng:

"Đại sư đã cáo từ bởi già bịnh, vậy hãy vì trẫm mà hành đạo, để tạo phước điền cho nước nhà. Đại sư cũng như Ngài Duy Ma Cật, mặc dầu bịnh hoạn cũng ở lại Tỳ-da-ly mà xiển dương môn Đại thừa, truyền tâm ấn của chư Phật và tuyên bày pháp bất nhị.

Tiết Giản có truyền lại chỗ Đại sư chỉ dạy về cái tri kiến Phật. Trẫm nhờ chứa điều lành, có phước dư và kiếp trước đã có trồng cội lành nên nay khiến có Đại sư ra đời, mà đặng liền hiểu rõ pháp thượng thừa. Trẫm rất cảm đội ơn Đại sư, chẳng bao giờ quên. Trẫm xin dâng cho Đại sư một cái áo Cà-sa và một cái bát bằng thủy tinh.

Trẫm ra lịnh cho quan Thứ sử ở Thiều Châu sửa san miếu tự, và sắc tứ cho chùa cũ của Đại sư ở, hiệu là Quốc Ân Tự."

Giảng:

Tiết Giản được Lục Tổ Đại sư chỉ dạy rồi, hốt nhiên khai ngộ, vì thế hướng Đại sư đảnh lễ từ biệt trở về Hoàng cung. Ông ta đem tất cả những đạo lý do Đại sư thuyết ra viết thành tấu chương dâng lên Hoàng đế. Mùng ba tháng chín năm đó, có một chiếu thư tưởng dụ Lục Tổ Đại sư: "Đại sư, Ngài cáo bịnh từ tạ chiếu thỉnh, vì Trẫm tu đạo, Ngài thật là phước điền của quốc gia, là vị Cao Tăng tu hành nhứt của quốc gia. Đại sư giống như cư sĩ Duy Ma trong Kinh Tịnh Danh, giả bệnh ở thành Tỳ Da. Ngài xiển dương Phật pháp Đại thừa, ở chùa Nam Hoa truyền pháp môn Phật tâm ấn, thuyết giảng pháp môn bất nhịsanh diệt như như, tánh tướng bất nhị. Tiết Giản sau khi trở về cung truyền đạt những lời dạy của Ngài cho Trẫm, tri kiến của Ngài là tri kiến của Như Lai. Trẫm nhiều kiếp nhiều đời rộng làm việc thiện, cho nên nay có vinh hạnh như thế, cũng vì Trẫm kiếp trước gieo trồng thiện căn Bồ đề, cho nên mới có thể gặp Tổ Sư Ngài xuất thế, khiến cho Trẫm nhanh chóng hiểu rõ diệu lý tối thượng thừa. Trẫm mông ơn Ngài giáo hóa, đối với Đại sư cảm ân bất tận, ngày ngày Trẫm đều đem những lời dạy của Ngài, khấu đầu đảnh lễ không ngừng, nay Trẫm kính dâng ca sa Ma Nạp do nước Cao Ly triều cống."

Y ca sa này tôi có thấy qua, do Võõ Tắc Thiên cúng dường Lục Tổ Đại sư, bên trên có nhiều mảnh, mỗi mảnh có thêu một tượng Phật, nghe nói Võ Tắc Thiên tự tay thêu lấy.

Chiếu thư của Võõ Tắc Thiên tiếp tục nói: "Lại dâng lên bát thủy tinh..." Bát thủy tinh giống như lưu ly, trong ngoài thấu triệt. "Trẫm sắc lệnh Thứ sử Thiều Châu, trùng tu ngôi chùa do Ngài xây dựng ở Tân Châu, và nơi quê Ngài ra đời, xây dựng một tự viện gọi là Quốc Ân Tự."

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10330)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12218)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15334)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16627)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12238)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11500)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14290)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 24630)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10713)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
(Xem: 12513)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10412)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12365)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11671)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 12069)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13025)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11470)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 17470)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 21428)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10703)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19276)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12443)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26066)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 14405)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 13743)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16868)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17608)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13151)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12552)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11636)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11639)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 20499)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 19016)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19621)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18692)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 15056)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15055)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 14010)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15542)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 14576)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 15871)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12900)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18447)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
(Xem: 15798)
Luận Văn Tổng Quát Về Đại Thừa do HT. Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 11098)
Nguyên tánh chân nhưlặng lẽsáng suốt không có gì gọi là chúng sanh (ngã), vũ trụ (pháp)...
(Xem: 53706)
Mông Sơn Thí Thực là một nghi thức đã được sử dụng rất phổ cập trong các ngôi Già lam thuộc hệ phái Phật giáo Bắc tông. Có ba loại nghi thức Mông Sơn: Đại Mông Sơn, Trung Mông Sơn và Tiểu Mông Sơn.
(Xem: 13015)
Bồ-tát Mã Minh tạo luận, Tam tạng pháp sư Chân Đế dịch Hán. HT Thích Trí Quang dịch giải Việt
(Xem: 16558)
Các phương thuốc của thế giới này, đa dạng và nhiều vô kể, thế nhưng chẳng có một phương thuốc nào có thể sánh với Đạo Pháp.
(Xem: 15431)
Tạng Luật được hình thành từ những điều luật được đặt ra để chỉnh đốn đạo đức tác phong của chúng đệ tử Đức Phật...
(Xem: 19981)
Tại Na-lan-Đà có một phái tu khổ hạnh, vị đứng đầu là Ni-kiền Thân-Tử, ông có cả nghìn đệ-tử, và có người tôn xưng ông là bậc Thánh...
(Xem: 15594)
Được HT Thích Tuệ Sỹ dịch theo bản Sanskrit, do Nhà xuất bản Phương Đông ấn hành năm Quý Mùi.
(Xem: 15377)
Tiếng Phạn “Sa Di”, ở đây dịch là Tức Từ, ý nói: Dứt ác, hành điều từ, dứt nhiễm ô thế giantừ bi cứu giúp chúng sanh. Còn dịch là Cần Sách, hoặc dịch là Cầu Tịch.
(Xem: 15178)
“Sau khi ta diệt độ, nên tôn trọng, kính quý Ba La Đề Mộc Xoa (Giới) như tối tăm gặp ánh sáng, như nghèo khó được của báu."
(Xem: 10412)
Với Phật giáo, toàn bộ nội dung tư tưởng Phật dạy là lấy con người làm gốc, gắn bó mật thiết với đời sống nhân quần xã hội...
(Xem: 20386)
Đức Phật dạy rằng, người nào sống không giới luật, tuy ở gần ta mà cũng như cách xa ta muôn dặm; người nào sống có giới luật, tuy ở xa ta muôn dặm mà cũng như ở cạnh bên ta.
(Xem: 15522)
Trẫm từng nói: Phật pháp chia ra Đại thừa, Tiểu thừa là việc thuộc về bên tiếp dẫn. Kỳ thật mỗi bước Tiểu thừa đều là Đại thừa, mỗi pháp Đại thừa chẳng lìa Tiểu thừa.
(Xem: 13070)
Tất cả nam nữthế gian giàu sang hay nghèo hèn, chịu khổ vô cùng hoặc hưởng phước vô lượng đều do nghiệp nhân gieo tạo đời trước mà cảm thọ quả báo hiện tại.
(Xem: 20185)
“Nhất thiết hữu vi pháp; Như mộng, huyễn, bào, ảnh; Như lộ diệc như điện; Ưng tác như thị quán.”
(Xem: 13312)
Thành thật luận (Satyasiddhi-sastra) do Ha-lê-bat-ma tạo luận, Cưu-ma-la-thập dịch Hán, Nguyên Hồng dịch Việt, thâu lục trong Đại chính, Đại Tạng Kinh số No 1647.
(Xem: 29044)
Chân Như Quan Của Phật Giáo (Ðặc biệt lấy Bát-Nhã làm trung tâm) Nguyên tác: Kimura Taiken; Việt Dịch: HT. Thích Quảng Độ
(Xem: 11738)
Nguyện cầu hồng ân Tam bảo gia hộ cho toàn thể quý học chúng Bồ tát giới tại gia, có đầy đủ bi trí lực để hoàn thành bản nguyện tự lợi, lợi tha, trong khung trời giải thoát tự tại của chánh pháp Như Lai.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant