Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

8 Phẩm Phật Đạo

08 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 6563)
8 Phẩm Phật Đạo

ĐƯỜNG TU KHÔNG HAI
KINH DUY MA CẬT GIẢNG LUẬN
Minh Tâm
Nhà Xuất Bản Thanh Văn - USA 1991

 

8. PHẨM PHẬT ĐẠO

Bấy giờ Ngài Văn Thù hỏi ông Duy Ma Cật rằng: Bồ Tát thế nào là thông đạt Phật Đạo? Ông Duy Ma Cật đáp: Bồ Tát thực hành phi đạothông đạt Phật Đạo

Phật Đạocon đường đưa đến chỗ giác ngộ, là những hạnh lành tốt phước huệ song tu, là Chân Lý nhiệm mầu huyền diệu không thể nghĩ bàn. Thông thường người ta cần bỏ ác làm lành, bỏ trái làm phải; ở đây, ông Duy Ma Cật lại nói ngược lại: Bồ Tát thực hành phi đạothông đạt Phật Đạo. Phi đạo là chẳng phải Phật Đạo, là con đường trái ngược xấu ác, là những phiền não tội lỗi nhiễm ô. Đoạn này người tu phải học hiểu cho cẩn thận rốt ráo, nếu hiểu lầm thì rất nguy hiểm. 

Bồ Tát là những bậc siêu phàm đạt đạo, đầy đủ sức phương tiện để thị hiện vào nghịch cảnh, làm những việc phi đạo trái với lẽ thường, nhưng các Ngài vẫn an nhiên tự tại, không dính mắc vào tội lỗi nhơ bẩn. Các Ngài thị hiện vào nghịch cảnh để làm những việc khó làm, với mục đích cứu độ chúng sinh đang ngụp lặn trong cảnh xấu ác đó. Bồ Tát ví như mẹ hiền thương con dại, con ngoan cũng thương, con hư còn thương nhiều hơn, người tốt cũng cứu độ, người xấu còn cần được cứu độ gấp hơn, vì vậy các Ngài hiện thân vào cõi đời ô trược, vào nhà điếm quán rượu, vào địa ngục để hóa độ chúng sinh; các Ngài không vào thì ai vào? Đừng quên là chỉ có các bực Bồ Tát đầy đủ đạo lựctrí huệ phương tiện mới làm nổi những việc khó làm, nếu người thường mà vào những nơi đầy cám dỗ thì dễ bị sa ngã lắm. Khó lắm, phải cẩn thận. Mình chưa đủ bản lãnh rnà đi độ đời thì dễ bị đời độ lại nghĩa là đắm chìm trong đời. Chưa biết bơi thì đừng nhẩy xuống sông vớt người bị chìm, không có mũ áo phòng lửa thì đừng xông vào nhà cháy cứu người, kẻo cùng bị chết thiêu. 

Thông đạthiểu rõ con đường phải đi, thấy biết những việc phải làm để tới mục đích. Thông đạt Phật Đạothực hành những pháp môn tu hành, biết rõ con đường chân chánh phải đi để tới được quả vị Phật, là hiểu tường tận những việc cần làm để thành tựu được mục đích tối hậu của người tu, đó là thành Phật, không phải chỉ riêng mình thành Phật mà tất cả chúng sinh đều thành Phật. Trong bốn lời thệ nguyện lớn của người phát Bồ Đề Tâm, lời thề thứ tư là: Phật Đạo vô thượng thệ nguyện thành. Phần đông chúng ta đều nghĩ rằng muốn thông đạt Phật Đạo, muốn biết rõ con đường dẫn tới quả vị Phật thì phải tinh tấn làm lành lánh dữ, bỏ ác theo thiện, dứt trừ tham sân si... nhưng ở đây, ông Duy Ma Cật lại nói phải thực hành phi đạo, nghĩa là trái đạo, chẳng phải đạo, thế là làm sao, có mâu thuẫn không? 

Bồ Tát có hai lối thị hiện: hiện thân trong thuận cảnh hoặc nghịch cảnh. Hóa độ chúng sinh trong thuận cảnh thì dễ, gặp người hiền lành tử tế chăm chỉ tu hành thì Bồ Tát chỉ nương theo đó mà hướng dẫn thêm, không khó khăn nhọc mệt, ví như thuyền trôi theo dòng nước, đủ buồm lái người chèo. Nhưng trong cảnh nghịch thì khó khăn hơn nhiều, làm thế nào mà vào cảnh khổ hoặc vào những nơi nhiều cám dỗ hưởng thụ dục lạctâm không khởi vọng, không chấp trước phân biệt, không bị ngoại cảnh chi phối, vẫn thanh tịnh sáng suốt tự tại. Các Bồ Tát giữ được tâm như như bất động vì các Ngài tự nguyện thị hiện vào nghịch cảnh chứ không bị đọa lạc lôi cuốn vào, chỉ dùng phương tiện vào đó để khuyên bảo người, làm gương trong sạch dạy dỗ chúng sinh, nhờ bản tâm an định sáng suốt mà làm việc lợi tha. Bồ Tát vào những nơi đau khổ nhơ uế không phải do nghiệp lực, do luật nhân quả mà chỉ do lòng đại bi, oai thần thị hiện nên không lúc nào bị vô minh chi phối, các Ngài cảm hóa chúng sinh đi theo con đường chân chánh. Có vào những nơi đó thì mới gần gũi, cảm thông với người trong đó, có thân cận thì nói họ mới chịu nghe, chứ cứ ở nơi xa, cảnh ngoài thì chỉ là nói suông, khó gây ảnh hưởng. Những người đồng cảnh bao giờ cũng thông cảm nhau, nghe nhau hơn. 

Bồ Tát có thể thị hiện gây phạm năm tội vô giánnăm tội lớn nhất trong Phật Giáo: Giết cha, giết mẹ, giết A La Hán, phá sư hòa hợp của chư Tăng và làm thân Phật chảy máu. Ai tạo năm tội này phải đọa vào địa ngục vô gián (A Tỳ) chịu các sự khổ không lúc nào ngừng nghỉ. Bồ Tát dùng phương tiện giả dạng phạm năm tội lớn này mà không buồn giận, chỉ nương đó chỉ dạy chúng sinh đừng bao giờ làm những việc đó. Các Ngài thị hiện trong ba đường khổ: địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, hiện thân trong ba cõi: cõi dục, cõi sắc và cõi vô sắc, nhưng vẫn an nhiên giải thoát, không bị sinh tử luân hồi. Các Ngài thị hiện tham sân si, phá giới, điên loạn, kiêu mạn... để chúng sinh thấy đó mà sợ, không làm theo. Các Ngài giả bộ giận dữ, la hét, đáng mắng để dạy các người lười biếng cứng đầu khiến họ phục tòng vâng lời, động cơ thúc đẩy các Bồ Tátlòng từ bi, là tình thương chứ không phải độc ác. Tùy theo căn tánh chúng sinhBồ Tát thị hiện thuận hay nghịch, mục đích duy nhất là khiến chúng sinh vâng theo, làm lành lánh dữ mà thôi, các Ngài không tham chấp, không mong cầu, tâm lúc nào cũng thanh tịnh

Các người tu theo hạnh Thanh Văn thì không dám làm những việc phi đạo, thí dụ phạm giới giết người để cứu nhiều người khác, phạm giới nói dối để cứu người đang bị truy tầm oan ức... các Bồ Tát thì dám làm dù mình có bị thiệt thòi, bị tội, nhưng cứ lợi tha là được. Dương Lễ thị hiện kiêu mạn để dạy Lưu Bình, khéo léo dùng phương tiện để giáo hóa bạn bớt ăn chơi lười biếng, chăm học thi đỗ. Các Bồ Tát tự ví như cầu đò, hạ mình làm việc thấp hèn, dù bị người đời khinh bỉ giẫm đạp nhưng vẫn chịu đựng như cây cầu, chiếc đò bị người bước lên trên mà vẫn mặc nhiên, vẫn giúp người đi sang bờ bên kia

Các hàng Thanh Văn, Bích Chi Phật chỉ mong cầu tự giác, thoát vòng sinh tử luân hồi cho là đủ rồi, đắc Niết Bànrốt ráo, không có chí nên tu thêm nữa, cho nên các Bồ Tát thị hiện làm hàng Thanh Văn, Bích Chi Phật nhưng không ngừng bước hài lòng với kết quả nửa chừng, mà tiến tu thành Phật để làm gương cho hàng Nhị Thừa tu theo. 

Đôi khi các Bồ Tát thị hiện tham ăn, tham sắc, lười biếng... bị khinh chê, rồi hối hận sửa đổi tính nết, trở thành người tốt, để dạy chúng sinh thấy rằng những người xấu như vậy mà còn tu được thì ai mà chẳng tu được ? Có khi Bồ Tát thị hiện làm người ngu đần ít học, tới chùa chỉ làm công quả gánh nước, bổ củi, nấu cơm... mà về sau cũng chứng quả. Có khi Bồ Tát thị hiện làm ăn buôn bán kiếm lời nhưng không tham đắm, giúp một số người có công ăn việc làm, lời không vui, lỗ không buồn, chỉ làm trợ duyên cho người khác có phương tiện tu hành. Cứ nơi nào mà chúng sinh cần thì Bồ Tát đến, vì từ bi mà làm, cứ lợi ích chúng sinh thì không quản ngại khó nhọc, đôi khi bị thiệt thòi mà vẫn hoan hỷ

Tóm lại, các Bồ Tát giả hiện vào cảnh xấu, làm việc xấu, nhưng tâm vẫn an nhiên tự tại, chỉ vì mục đích hóa độ chúng sinh, làm gương cảnh tỉnh chúng sinh, giúp đỡ chúng sinh tu hành, đó là nghĩa câu Phi ĐạoPhật Đạo. Các Bồ Tát làm những việc trái đạo như thế, đấy là thông suốt Phật Đạo

Bấy giờ ông Duy Ma Cật hỏi Ngài Văn Thù: Thế nào là hột giống Như Lai? Ngài Văn Thù cũng nói y như ông Duy Ma Cật đã nói ở trên, nghĩa là nói ngược lại ý nghĩa thông thường: Thân, vô minh, ái, tham sân si... tất cả 62 món tà kiếnphiền não đều là hột giống Phật cả. Đoạn kinh này đả phá hàng Thanh Văn, Duyên Giác mới chứng Niết Bàn cho là đủ, không chịu tiến tu Phật Đạo. Hàng Nhị Thừa thấy đời là khổ, chúng sinh cang cường khó bảo khó dạy, tội lỗi phiền não thì nhiều, ái dục ma chướng thì lắm, nên các Ngài không muốn ở lại trong xã hội, mà các Ngài xa lánh cuộc đời, vào núi rừng trầm không thú tịch, vui hưởng Niết Bàn riêng mình. Đức Phật quở trách nhóm này là ích kỷ, mầm khô hột thối, không còn ích lợi gì cho chúng sinh

Phiền não đều là hột giống Phật, phiền não tức Bồ Đề có nghĩa là nếu khéo tu, khéo chuyển thì tất cả phiền não chính lại là những vật liệu xây dựng Bồ Đề. Chúng ta lỡ phạm tội, gây phiền não, chịu khổ đau nên trải qua nhiều kinh nghiệm, không còn tham đắm dục lạc biết là vô thườngbất tịnh nên thành tâm sám hối, tinh tấn tu hành, biến tội lỗi thành công đức, chuyển phiền não thành Bồ Đề, là hột giống chuyển chúng sinh thành Phật. Bà mẹ hiền nuôi dưỡng đàn con, dạy dỗ nên người, công lao khó nhọc, làm tròn nhiệm vụ người mẹ, đó là tu hành, đôi khi cũng la mắng đánh đập, nhưng để khiến đàn con nghe lời ngoan ngoãn, thành người tốt. Mẹ gánh phiền não nhưng đàn con trở nên người tốt, nhờ công lao bà mẹ, hột giống Phật nẩy mầm, phiền não chính là Bồ Đề vậy. 

Các hàng Thanh Văn tuy đã diệt trừ được các phiền não nhiễm ô, nhưng xa lánh cuộc đời, không có kinh nghiệm độ sinh, thiếu từ bi hỷ xả, khó phát tâm Vô Thượng Bồ Đề. Còn Bồ Tát thấy có bổn phận phải vào đời để cứu giúp chúng sinh, còn chúng sinh đau khổ thì Bồ Tát không thể an vui hưởng Niết Bàn được. Bồ Tát là người trước đây còn đau khổ, nay được hết khổ thì có bổn phận đưa đường cho chúng sinh đi tới nơi hết khổ. Ví như người bị bệnh tìm ra phương thuốc chữa khỏi bệnh cho mình rồi thì phải đem thuốc đó ra cứu những người khác đang bệnh, lấy kinh nghiệm bị bệnh rồi uống thuốc được khỏi bệnh ra truyền dạy người khác. Thuốc được phát minh là do có bệnh, Bồ Đề có được chính do phiền não mà ra. Diệt hết phiền não thì Bồ Đề hiện. Đối trị được phiền não, đối cảnh không sinh tình, tâm an cảnh định, đó là phiền não chính là hột giống Như Lai

Người thấy vô vi mà vào chánh vị (Niết Bàn) thì không thể còn phát tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác: Thấy vô vi là chứng được ngã pháp là Không, rồi xa lánh cuộc đời, có thái độ tiêu cực chán đời, không có lòng cứu giúp người khác vì sợ khó sợ khổ, những hạng người đó khóng thể phát tâm Bồ Đề được. Còn các Bồ Tát tuy cũng thâm nhập năm uẩn là Không, nhưng Không đây chẳng phải là chẵng có gì hết, mà trong cái Không này lại hiện ra cái có, cái Không này là nguồn gốc của mọi sự mọi vật, đó là lý Chân Không Diệu Hữu, các Ngài thấy tất cả là một. Bồ Tát không lìa chúng sinh, mà có liên quan mật thiết với nhau, bứt dây động rừng, cái này có là cái kia có, cái này không là cái kia không, trùng trùng duyên khởi, vì vậy các Bồ Tát qua lại ba cõi thị hiện các thân hình làm các việc khó làm để hóa độ chúng sinh. Mà chúng sinh ở đâu? Ở trong cuộc đời đầy xấu xa tội lỗi phiền não nếu không vào đó thì làm sao cứu độ? Nếu không mọc trong bùn thì làm sao hoa sen có mùi thơm? Nếu không xuống biển thi làm sao tìm được bảo châu vô giá ? Nếu không vào biển cả phiền não thì làm sao có được ngọc Nhất Thiết Trí, là trí huệ biết tất cả mọi sự mọi vật. Lấy thí dụ trong cuộc đời hiện tại: những sinh viên các nước chậm tiến nghèo đói được gửi đi du học tại các nước có nền khoa học tiến bộ, sau khi thành tài không muốn trở về nước phục vụ đồng bào vì ngại đời sống thấp, dân trí hèn, ngại khổ, ngại buồn, họ ở lại nước ngoài để hưởng thụ sự sung sướng dục lạc cho riêng mình. Đó giống như tâm trạng hàng Thanh Văn. Nhưng cũng có một số sinh viên sau khi thành tài liền trở về nước phục vụ đồng bào, cải tổ đời sống xã hội, nâng cao dân trí, làm sao tất cả dân chúng trong nước được hạnh phúc, riêng mình vất vả cũng vui. Đó là tâm trạng chư vị Bồ Tát, vì người quên mình

Lúc bấy giờ Ngài Đại Ca Diếp, đại diện cho các hàng Thanh Văn Duyên Giác, tỉnh ngộ, nói lời tán thán Ngài Văn Thù và tự trách Nhị Thừa không còn lợi ích gì vì không có chí nguyện độ sinh. Phàm phu ở trong Phật Phápphát tâm Vô Thượng Bồ Đề thì còn hơn hàng Nhị Thừa không phát đạo tâm cứu giúp chúng sinh

Lúc đó trong chúng hội có một Bồ Tát tên là Phổ Hiện Sắc Thân hỏi ông Duy Ma Cậl rằng: Cha mẹ, vợ con, thân bằng quyến thuộc, tôi tớ, xe cộ, voi ngựa, là ai và ở đâu? Phổ là rộng, Hiện là hiện ra cho thấv. Bồ Tát Phổ Hiện Sắc Thân tượng trưng cho việc các Bồ Tát vì lòng tư bi mà thị hiện rộng rãi nhiều thân hình trong ba cõi sáu đường, làm những việc khó làm để chúng sinh trông thấy mà noi theo. Mỗi khi đọc tên một vị Bồ Tát trong kinh điển Đại Thừa, chúng ta nên lưu tâm tìm hiểu danh hiệu đó muốn nói lên một ý nghĩa thâm sâu huyền bí chứ không phải một tên hiệu thông thường. Ở đây, Bồ Tát Phổ Hiện Sắc Thân lên tiếng hỏi, hàm ý Kinh muốn nói rộng ra cho mọi người hiểu thêm, lập lại và nói tóm lại cho rõ ràng, giúp mọi người hiểu biết rành mạch và không quên. 

Đức Phật thuyết pháp cho người đến nghe. Ngài chỉ nói và không có ai ghi chép nên e ngại một số đông thính giả không nhớ hết, Đức Thế Tôn thường áp dụng lối nói pháp gọi là Trùng Tụng nghĩa là sau khi trình bày giáo lý, Ngài lập lại bằng một bài kệ văn vần tóm tắt ý nghĩa vừa nói, giúp người nghe dễ học dễ nhớ. 
Trong bài kệ này, ông Duy Ma Cật nhắc lại: Trí HuệPhương tiện là quan trọng nhất, sinh ra các pháp, ví như cha mẹ sinh ra các con. Trí độtrí huệ độ người sang bờ bên kia, dịch nghĩa chữ Bát Nhã Ba La Mật Đa phiên âm chữ Phạn Prajna Paramita, là trí huệ rốt ráocông năng đưa người qua sông mê bể khổ tới bờ giải thoát rốt ráo an vui. Cũng có nghĩa là Trí Huệ của những ai đã sang tới bờ bên kia. Bờ bên này là ba cõi, là trần lao đau khổ, luân hồi vô minh; bờ bên kiaNiết Bàn an lạc, giác ngộ giải thoát. ở giữa là dòng sông sinh tử

Trí Huệ được coi là quan trọng nhất trong pháp môn Lục Độ của Bồ Tát Đạo. Còn phương tiện là cách thức áp dụng giáo lý vào cuộc đời, cần tùy duyên uyển chuyển sao cho hợp thời hợp cơ trong việc hóa độ chúng sinh đi tới cứu cánhgiác ngộ. Rồi ông Duy Ma Cậl nhắc lại các hạnh tu khác như Từ Bi, 37 phẩm trợ đạo, Tứ Nhiếp Pháp, Tổng Trì, Bát Chánh Đạo... để dẹp giặc phiền não, hàng phục bốn thứ ma (phiền não ma, ngũ ấm ma, tử ma, thiên ma, ở đoạn trên đã giải thích) chia ra nội ma và ngoại ma. Nội ma là những thói hư tật xấu tiềm ẩn trong lòng xúi giục chúng sinh gây tội lỗi phiền não. Ngoại ma là những chướng ngại, cạm bẫy ở ngoài đời thử thách công phu tu hành, gây khó khăn xem người tu có vượt qua được không? Các Bồ Tát có đủ oai lực để hàng phục bốn thứ ma đó nên các Ngài hiện thân các cõi để dạy bảo chúng sinh. Có khi các Ngài thị hiện nghịch cảnh việc ma để chúng sinh biết mà xa lìa. Có khi thị hiện sinh già bệnh chết để chúng sinh hiểu lý vô thường huyễn hóa mà không tham đắm việc thế gian, dù biết tất cả là Không mà vẫn tu về Tịnh Độ, thị hiện trong cõi dục giới để dạy chúng sinh tu thiền định, thị hiện làm dâm nữ để phương tiện dạy kẻ háo sắc chán lìa nhục dục... Bồ Tát hóa hiện mọi thân hình trong mọi hoàn cảnh thuận nghịch, dùng mọi phương tiện để cứu độ chúng sinh, dẫn vào Phật Đạo. Hai câu sau đây nói lên sự khéo léo của Bồ Tát: Trước lấy dục dụ người, sau khiến vào Trí Phật, nghĩa là biết chúng sinh ham ưa những điều khoái lạc, nếu nói trái ý thì không nghe, nên trước tiên Bồ Tát chiều theo ý chúng, ưa trang điểm thì cho đồ trang sức, ưa món ăn ngon thì cho thức ăn vừa ý, thích nghe hát thì cho nghe, thích đọc truyện thì cho đọc, nhưng lần lần chuyển về phía tốt, dạy trang sức bằng đức hạnh, ăn ngon bằng thiền duyệt, hát hay bằng tán thán, đọc truyện bằng kinh điển... tóm lại, chúng sinh ưa gì thì Bồ Tát cho nấy để họ vừa lòng và chịu nghe lời, sau đó mới tùy thuận mà dùng trí huệ dẫn dắt. Nếu thấy, người uống rượu mà mình la rầy thì chắc chắn họ không nghe, họ bực mình, nào có ích gì. Có khi Bồ Tát thị hiện làm người buôn bán kiếm nhiều lời để bố thí cho chúng sinh, vừa vì lòng từ bi, vừa làm gương cho họ theo đó phát tâm bố thí. Có khi Bồ Tát hiện làm tôi tớ giúp việc cho người để người chủ vừa ý, khởi phát đạo tâm, thấy tôi tớ mình nghèo hèn mà còn làm những việc tốt, huống chi mình giàu có, người chủ bắt chước tôi tớ mà làm việc thiện.

Chỗ sai khác giữa Bồ Tát thị hiệnchúng sinhBồ Tát làm mọi việc thiện áckhông chấp, làm xong là bỏ, còn chúng sinh làm với lòng mong cầu. Bồ Tát bố thí để giúp người thiếu thốn, chỉ vì muốn họ bớt khổ. Họ cám ơn hay không, họ có phát tâm làm lành hay không? Bồ Tát không chú ý, làm vì biết đó là tốt làm xong là quên. Chúng sinh bố thí mà người ta quên cám ơn là buồn, thối tâm, sau không làm nữa. Như vậy chúng sinh bố thí là để cầu danh, cầu được lời cám ơn, còn chấp ngã, có chút từ bi nhưng thiếu hỷ xả

Đại ý phẩm này là các Bồ Tát làm mọi việc để dẫn dắt chúng sinh vào Phật Đạo, dùng mọi phương tiện thuận hoặc nghịch, có khi phải thực hành Phi Đạo các Ngài cũng sẵn sàng chiều theo xu hướng thế gian, rồi lần lần tìm cách xoay hướng về đường ngay lẽ phải. Ai được nghe pháp lành này mà chẳng phát tâm Bồ Đề, chỉ trừ những kẻ ngu si không có trí huệ, không biết xấu hổ vì còn sống trong vô minh quá dầy đặc. 

Phẩm này đề cao công hạnh của các Bồ Tát thị hiện vào đời để hóa độ chúng sinh, thấy khổ không sợ, thấy sinh tử không chán, thấy chúng sinh tội lỗi thì thương, thấy khó khăn nhọc mệt không xa lánh, phẩm này cũng chê trách hàng Thanh Văn chỉ mong giải thoát riêng mình, lánh xa cuộc đời xấu ác nhiễm ô

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 40095)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 37288)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 28293)
Sự hiện hữa của các pháp trên mặt hiện tượng của tướng đó là một sự hiện hữu giả hợp do duyên và, mặt khác tánh của chúng là Không cũng do duyên mang lại.
(Xem: 28898)
Bàn tay cầm chiếc chìa khóa vô thườngchánh niệm. Dùng hơi thở chánh niệm ta tiếp xúc với mọi sự vật, quán chiếu và thấy được tính vô thường của mọi sự vật.
(Xem: 27174)
Phật dạy: Tự tính của Không là không nằm trên bình diện có không, không nằm trong khuôn khổ các vọng tưởng, không có tướng sinh, không có tướng diệt, và vượt thoát mọi tri kiến.
(Xem: 34678)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 27813)
Tôi nghĩ nhiệm vụ quan trọng nhất của bất cứ một hành giả của một tôn giáo nào là thẩm tra chính họ trong tâm hồn của chính họ và cố gắng để chuyển hóa thân thể, lời nói
(Xem: 33294)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 28572)
Khi Phật thành đạo là do đạt được Trí Tuệ hay Giác Trí Tuệ thì các pháp giải thoát được thiết lập thực hành Giác Trí Tuệ trong các thời thiền tập.
(Xem: 30080)
Khi tuệ giác nội quán của chúng ta vào trong bản chất tối hậu của thực tạiTính Không được sâu sắc và nâng cao, chúng ta sẽ phát triển một nhận thức về thực tại...
(Xem: 25494)
Thông thường mà nói Bát Nhã có ba ý nghĩa. Thứ nhất là thực tướng, tướng là tướng trạng, thực tướng chính là hình ảnh chân thực. Nghĩa thứ hai là quán chiếu Bát Nhã, cũng chính là chỗ dụng của thực tướng.
(Xem: 51320)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 26736)
Tận cùng tư duy của Đạo Phật quan tâm, định luật căn bản là: chúng ta muốn hạnh phúc. Quyền căn bản của chúng tađạt được hạnh phúc.
(Xem: 28629)
Khi chúng ta nói về từ bi, thật đáng khuyến khích để lưu ý rằng bản chất tự nhiên của con người, tôi tin, là từ bihiền lành.
(Xem: 24361)
Tự tánh giả danh hay tùy thuộc cũng nằm trong phạm trù Tánh không. Tự tánh giả danh được thể hiện tướng sanh diệt do tác động thời gian thì có sanh có diệt...
(Xem: 27464)
Tuệ quán là tri nhận một cách sáng suốt, vô thời gian. Vì lẽ chơn thức (tri giác nguyên sơ) là một điểm nhận thức có thật trong động tác nhận thức đầu nguồn của tri giác.
(Xem: 31943)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 30187)
Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có thiện nam, thiện nữ nào muốn vì chúng sinh mà nói kinh Pháp Hoa này thời thiện nam hay thiện nữ ấy phải vào nhà Như Lai... Pháp sư Thích Thiện Trí
(Xem: 27705)
“Dược Sư Lưu Ly Quang” là tên gọi của đức Phật này; “Như Lai” là một trong mười tôn hiệu của mỗi vị Phật; “Bổn Nguyện” là các lời phát nguyện của đức Phật này khi Ngài phát tâm Bồ-đề...
(Xem: 35462)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 27448)
Ngày nay, Kinh Chuyển Pháp Luân thuộc Tương Ưng Sự ThậtTương Ưng Bộ SN 56.11 trong kinh điển Pali được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật.
(Xem: 31777)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 24184)
Cách mà chúng ta đang sống sẽ là một trong các nhân tố chính yếu có thể mang lại cho chúng ta sự thanh thảnđiềm tĩnh trong giây phút lâm chung.
(Xem: 23027)
Kinh này có tám phương pháp tu hành thành Phật, mà bậc Đại nhân gánh vác sự nghiệp lớn liễu sinh thoát tử, hóa độ chúng sinh cần phải giác ngộ, nên gọi là Kinh Tám Điều Giác Ngộ Của Bậc Đại Nhân.
(Xem: 26665)
Nếu chúng ta thẩm tra thế giới tinh thần của chúng ta, chúng ta thấy rằng có những nhân tố tinh thần đa dạng có cả những khía cạnh tích cựctiêu cực.
(Xem: 28247)
Càng trau dồi, Giác Trí càng khai mở thì Pháp Phật càng sáng tỏ hơn; giống như càng nghiên cứu học hỏi thì kiến thứctư tưởng càng phong phú và sâu sắc hơn.
(Xem: 29393)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 33300)
Hình ảnh của Bồ Tát Địa Tạng với khuôn mặt đôn hậu, từ ái, đầu đội mũ tỳ lư, tay cầm tích trượng là một hình ảnh luôn tỏa sáng trong tâm khảm của những người con Phật...
(Xem: 21778)
Để dễ tiếp cận, chúng ta sẽ nêu câu hỏi cụ thể, rằng “Ai đã vượt qua cả thiện và ác?” và các trích dẫn nơi đây sẽ chỉ tập trung riêng vào Kinh Pháp Cú (Dhammapada).
(Xem: 20624)
Theo Trung Quán, duyên khởi không có nghĩa là nguyên lý của một tiến trình ngắn ngủi, mà là nguyên lý về sự lệ thuộc vào nhau một cách thiết yếu của các sự vật.
(Xem: 22262)
Vì sự vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, nên tâm khôngtự tính. Sáu thức hay tâm thức đã vô thường thì nó cũng không có chơn thật.
(Xem: 24000)
Nói khái quát, Phật giáo quan niệm thực tại không ngừng biến chuyểnbác bỏ khái niệm bền vững lâu dài. Tất cả là một dòng sát na sinh diệt liên tục, tất cả là lưu chú...
(Xem: 22869)
Với hy vọng và một cảm giác hạnh phúc, thân thể chúng ta cảm thấy an lạc. Vậy nên hy vọnghạnh phúc là những nhân tố tích cực cho sức khỏe của chúng ta.
(Xem: 23214)
Một quan điểm khách quan mà nói, các kinh dù nguyên thủy hay phát triển, cốt tủy Giác Ngộ được Cứu CánhGiải Thoát khỏi dòng Tâm Thức vẩn đục...
(Xem: 30427)
Mục tiêu cuối cùng của việc học Phật là khai trí huệ. Trí huệ từ Định lực mà có, cũng chính là do tâm thanh bình đẳng mà có...
(Xem: 21795)
Sodpa hay Nhẫn nhục ba la mật là một trong những pháp thực hành Bồ tát đạo quan trọng nhất. Có những hoàn cảnh đặc biệt bạn cần phải thực hành hạnh Sodpa.
(Xem: 19270)
Với Phật giáo, sống là sống với. Do đó, bạn bè là một thuộc tính riêng có của các loài chúng sanh nói chung và của con người nói riêng...
(Xem: 20172)
Muốn đền đáp ân đức cha mẹ là khi cha mẹ chưa có lòng chính tín thì khuyên bảo cha mẹ có lòng chính tín để có được nơi an ổn từ niềm tin đó...
(Xem: 32739)
Pháp sư Ấn Hải dịch từ Nhật ngữ sang Hoa ngữ vào năm 1987, Thích nữ Viên Thắng dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ vào năm 2011
(Xem: 34024)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 27776)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 23837)
Tâm kinh Bát-nhã là một bản kinh trọng yếu trong nhà Thiền, bản kinh này nói về “tánh không” của các pháp. Người tu Phật phải mở được cánh cửa trí tuệ...
(Xem: 23226)
Từ bi bác ái, tự giác giác tha. Ấy là mục đích của bậc chơn tu chánh đạo. Xưa, Phật ra đời khai môn giáo hóa, tế độ quần sanh trong bốn mươi chín năm...
(Xem: 28181)
Ngay từ lúc hóa sinh ở đấy, nguyện cho con đạt đến chính tư duy, chính định, tâm linh không điều kiện của giác ngộ, vô tận biện tài, và vô số kho tàng của tuyệt diệu như thế...
(Xem: 19215)
Ở một chừng nào đó có thể hiểu, đi theo con đường của Phật, noi theo công hạnh của Phật, để cuối cùng được kết quả như Phật… thì được xem là đang làm việc Phật.
(Xem: 24607)
Nội dung của Kinh Di Giáo là những lời dạy của đức Thế Tôn trước khi nhập diệt. Lời lẽ đã tha thiết, ý nghĩa lại sâu xathực tế.
(Xem: 21444)
Bổn phận của người Xuất Giatu đạo, truyền đạoduy trì Phật giáo, cho đến thực hiện tinh thần Bồ-tát nhập thế, còn bổn phận của người Tại Gia là ở bên ngoài hộ trì Phật giáo.
(Xem: 23866)
Diệu Pháp Liên Hoa, đề kinh được cấu tạo theo thể cách Pháp và Dụ. Diệu Pháp ám-tỷ cho cái Tri Kiến Phật nhiệm mầu vốn có của tất cả chúng sanh...
(Xem: 29423)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 31040)
Mục đích của Phật pháp không ngoài việc giúp chúng sinh giác ngộ tự tâm, xa lìa khổ đau đạt được an lạc... Thích Tâm An biên dịch
(Xem: 25347)
Thân tất cả chư Phật, Là thân một đức Phật. Một tâm một trí huệ, Lực vô úy cũng thế... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 20154)
Nghiệp báo, trước tiên nhất có nghĩa là hành động. Chúng ta phân biệt một loại nghiệp báo, là bản chất tinh thần, một nhân tố tinh thần...
(Xem: 19039)
Theo lời dạy của Đức Phật, sắc sanh như là các hạt nhỏ. Các hạt nhỏ này có thể nhỏ hơn các nguyên tử. Khi quý vị thực hành thiền tứ đại một cách có hệ thống...
(Xem: 20163)
Diệu pháp đại thừa pháp Liên hoa một đóa trăng Cõi trời người cung kính Quy mạng đốn giác môn.
(Xem: 20047)
Đức Phật là vị thầy, người hướng dẫn và chỉ đạo tâm linh của chúng ta. Do thế, những hành vi thân thể, lời nóitư tưởng phải phù hợp với lời dạy của ngài.
(Xem: 19411)
Chúng ta sống trong không gian vô cùngthời gian vô tận tất phải có nhận thức về thế gian. Thế gianmột thế giới hiện tượng lưu chuyển mãi...
(Xem: 22582)
Tất cả các đệ tử đã đến đây, bởi đang tìm kiếm sự giải thoáthạnh phúc vô song tối thượng của sự toàn giác. Mọi người tập họp ở đây vì chúng sinh, vì Giáo Pháp...
(Xem: 31141)
Vâng, để Giác Ngộ, chỉ cần xoáy vào một chữ tâm đó thôi. Chỉ cần an trụ, chỉ cần hàng phục được cái tâm đó là xong! Nghĩa là trở thành một bậc Giác ngộ, ngang hàng với Phật...
(Xem: 19715)
Hạnh phúc hay khổ đau trong kiếp sống hiện tại và tương lai đều là kết cục của những ý nghĩ và hành động trong kiếp sống quá khứ hay bây giờ của chúng ta...
(Xem: 19705)
Một khi chúng ta chấp nhận một truyền thống tôn giáo, thì điều ấy phải trở thành một bộ phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant