Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Pháp Quán Đại Bi

05 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 19474)
Pháp Quán Đại Bi

ASANGA (375-430)
NGÀI VÔ TRƯỚC
PHÁP QUÁN ĐẠI BI
Bản dịch Anh ngữ: “Asanga’s Teaching of Great Compassion.”
Trích từ : Essential Tibetan Buddhism. R.A.F. Thurman.[1996]
Bản dịch Việt Ngữ : Đặng Hữu Phúc

blank[ Tu tập mở đầu ]

Để phát Tâm Bồ đề (The spirit of enlightenment; bodhicitta-sanskrit), bạn trước nhất phải phát triển tâm bình đẳng (equanimity: tâm bình đẳng, tâm xả) đối với tất cả hữu - tình và rồi tư - duy về giáo pháp tâm linh về nhân và quả có bảy chi do ngài Di Lặc giảng cho ngài Vô Trước. Trước nhất, hãy tưởng tượng xuất hiện trước bạn một hữu – tình chẳng hề giúp đỡ bạn cũng chẳng hề gây tổn hại bạn. Hãy nghĩ “Ông này tự thấy ông ta muốn có hạnh phúc và không muốn khổ đau, hoàn toàn giống như mọi người khác cũng đều mong muốn như vậy. Tôi sẽ làm cho tôi thoát khỏi sự yêu thích và không yêu thích. Tôi chẳng muốn cảm thấy thân cận với vài người và giúp đỡ họ trong khi đó cảm thấy xa cách những người khác và làm tổn hại họ. Tôi sẽ phát triển tâm bình - đẳng đối với tất cả hữu - tình. Chư vị lạt machư thiên hãy gia - hộ cho tôi làm được điều này!”

Một khi bạn cảm thấy tâm bình - đẳng đối với người trung - lập đó, hãy tưởng tượng một người mà bạn yêu thích. Hãy cố gắng cảm thấy tâm bình - đẳng đối với người đó. Hãy nghĩ “Lòng thiên lệch của tôi là do lòng yêu thích của tôi. Vì tôi luôn luôn ham muốn những hữu tình quyến rũ, tôi đã tái sinh liên tục trong vòng sinh - tử đầy khổ lụy”. Hãy ngăn chặn lòng ham muốn của bạn bằng tư - duy như thế và hãy thiền định.

Một khi bạn cảm thấy tâm bình - đẳng đối với con người yêu thích đó, hãy tưởng tượng đến một người không yêu thích. Hãy cố gắng cảm thấy tâm bình -đẳng đối với người này. Hãy nghĩ “Bởi vì đã có một sự không hòa thuận giữa chúng tôi, tôi đã phát triển một sự không yêu thích đối với người này và do thế tôi thiếu tâm bình - đẳng. Không có tâm bình - đẳng tôi không thể có tâm Bồ-đề trong tâm trí tôi!” Hãy ngăn chặn lòng không yêu thích của bạn bằng tư-duy như thế và hãy thiền định.

Khi bạn cảm thấy tâm bình-đẳng đối với người không yêu thích đó, hãy tưởng tượng cả hai người chung với nhau. Hãy nghĩ “Hai người này đều giống nhau ở điểm mỗi người tự mình muốn có hạnh phúc và không muốn khổ đau. Nhìn từ quan-điểm của tôi, người này giờ đây tôi thân cận như thế nhưng đã tái sinh làm kẻ thù của tôi vô số lần rồi. Người này tôi cảm thấy bất hòa nhưng đã tái sinh làm mẹ của tôi vô số lần và đã săn sóc tôi với lòng từ-bi, lòng yêu thương. Tôi nên yêu thích người nào đây? Tôi nên oán ghét người nào đây? Tôi muốn cảm thấy tâm bình-đẳng, không vướn vào yêu thích và không yêu thích”. Chư vị Lạt machư thiên, hãy gia-hộ tôi thực hiện được tâm bình-đẳng này.

Một khi bạn đã cảm thọ tâm bình-đẳng như thế, hãy trải rộng tâm này đến tất cả hữu-tình. “Tất cả hữu-tình đều như nhau. Mỗi hữu-tình đều muốn hạnh phúc và không muốn khổ đau. Tất cả hữu-tình đều là người trong gia đình của tôi. Do đó tôi sẽ học tâm bình đẳng và không vướng mắc vào chuyện yêu thích kẻ tôi thấy thân cận và không yêu thích kẻ mà tôi thấy xa cách, giúp đỡ vài người và tổn hại những người khác. Chư vị Lạt machư thiên hãy gia-hộ tôi thành tựu điều này!”.

 [ 1: Tất cả hữu tình đều là mẫu thân ]

Một khi bạn đã phát triển được tâm bình đẳng, hãy thực thi giáo chỉ thứ nhất của bảy giáo chỉ về nhân và quả để đạt đến Tâm Bồ đề. Hãy quán tưởng chư vị lạt machư thiên trước mặt bạn và hãy tư-duy “Tại sao tất cả hữu-tình là người trong gia đình tôi? Vì không có sự khởi đầu của vòng sinh tử, thế nên cũng không có sự khởi đầu của các tái sinh của tôi. Trải qua vô lượng vô biên cuộc sống này, không hình thức sinh sống nào mà tôi không được sinh ra. Trong tất cả hữu tình, không ai mà không là mẹ của tôi trong vô số lần. Mỗi người là mẹ của tôi trong thế giới con người vô lượng lần, và sẽ lại trở thành mẹ tôi nhiều lần nữa”.

Khi bạn đã kinh nghiệm đầy đủ sự thật này, hãy tư-duy về lòng từ-bi (the kindness) mà chúng sinh đã hiển hiện cho bạn khi họ đã là mẹ của bạn. Hãy quán tưởng chư vị lạt machư thiên trước bạn, hãy tưởng tượng rõ ràng mẹ của bạn ở đời này, khi bà còn trẻ và khi bà già dần đi. “Bà không những chỉ là mẹ tôi trong đời này, nhưng bà đã chăm lo săn sóc cho tôi biết bao nhiêu đời qua mà con số không thể đếm được. Trong đời này bà đã từ-bi cho tôi an-trú trong thai-tạng của bà, và khi tôi được sinh ra bà đã thương yêu đặt tôi trên chiếc gối mềm mại và ru tôi trong vòng tay của bà. Bà đã ôm ấp tôi với bộ ngực ấm áp của bà, đã cho tôi bú những giòng sữa ngọt ngào của bà. Bà đã đón chào tôi với nụ cười âu yếmngắm nhìn tôi với đôi mắt hạnh phúc sung sướng. Bà lau sạch nước mũi cho tôi và thu dọn sạch sẽ các thứ tôi bài tiết. Tôi có đau yếu chút ít thì làm bà lo lắng khốn khổ hơn so với cái lo bà có khi bà sắp chết. Xem nhẹ các đau khổ thân tâm, các cơ cực về tinh thần, các lạm dụng, tệ bạc, không quan-tâm chút nào đến chính bà, bà cung cấp cho tôi đầy đủ, sẵn sàng mọi thứ tôi cần cũng y như lúc bà cung cấp thức ăn thức uống và nơi cư-trú. Bà cho tôi vô lượng hạnh phúc và lợi-ích và bảo-vệ tôi tránh khỏi mọi khổ đau và những tổn hại không thể đo lường được”. Hãy tư-duy về lòng từ-bi vô lượng của bà. Và rồi sau đó, cũng theo cách đó, hãy tư-duy về lòng từ-bi của cha của bạn và những người khác thân thiết với bạn, bởi vì họ cũng là mẹ của bạn đã vô số lần.

[ 2: Tưởng nhớ ân đức của tất cả hữu tình mẫu thân ]

Khi bạn có đầy đủ kinh-nghiệm về sự thật này, hãy thiền quán về những hữu-tình bạn cảm thấy vô tư đối với họ (impartial) “Mặc dầu giờ đây có vẻ như họ không có liên quan gì với tôi, họ đã là mẹ của tôi vô số lần, và trong những đời sống đó, họ đã bảo vệ tôi với lòng từ-bi và nhân-đức”. Khi bạn đã có kinh-nghiệm về sự thật này hãy thiền quán về những hữu-tình mà họ giờ đây là đối-thủ đua tranh với bạn. Hãy tưởng tượng rõ ràng trước bạn, và hãy nghĩ: “Làm sao bây giờ tôi có thể cảm thấy rằng những người này là những kẻ thù của tôi? Vì số lượng cuộc đời đã vô lượng, họ đã là mẹ tôi trong vô số lần. Khi họ là mẹ tôi họ đã đem đến cho tôi hạnh phúclợi ích vô lượng và đã bảo-vệ tôi thoát khỏi khổ đau và tổn hại. Nếu không có họ tôi không thể tồn tại ngay chỉ một khoảng thời gian ngắn ngủi và nếu không có tội họ sẽ không thể chịu nổi những đau khổ cơ cực dù chỉ một khoảng thời gian ngắn ngủi. Chúng tôi cảm thấy một sự gắn bó mạnh mẽ như thế trong vô số lần. Thế mà bây giờ họ là những đối-thủ của tôi do duyên khởi vận-hành (due to bad evolutionary actions). Vào một thời gian khác trong tương lai họ sẽ lại là mẹ của tôi, người bảo vệ tôi với lòng từ-bi.” Khi bạn có kinh-nghiệm đầy đủ về sự thật này, hãy thiền quán về lòng nhân-đức của tất cả hữu-tình.

[ 3: Phát triển ý-nguyện báo ân hữu tình mẫu thân ]

Sau đó hãy thiền quán về báo ân tất cả hữu tình, tất cả các bà mẹ của bạn. Hãy quán tưởng chư vị lạt ma và chư thần bảo-hộ (deities) trước bạn và tư-duy. Từ thời vô-thủy những bà mẹ này đã bảo vệ tôi với lòng từ-bi nhân đức. Vậy mà từ đó tới nay (yet as) tâm trí của họ bị phiền não (phiền-động não-loạn) bởi những ma chướng của say mê, mê đắm (demons of addictive passsions) họ đã không có được tâm trí tự chủ và thành ra bị quẩn trí. Họ thiếu con mắt để thấy hoặc con đường đưa tới cõi ngườichư thiên hoặc con đường đưa tới Niết Bàn, tối-thượng thiện-hảo. Họ không có được vị thầy tâm linh, người dẫn đường cho những kẻ mù. Liên tục bị thoi nện bầm dập tả tơi do các tác-nghiệp sai-trái đánh-nhầu-với-nhau-một-trận, họ lăn trượt tới bên bờ vực thẳm dễ sợ của tái sinh trong tương tục của sinh tử, đặc biệt là những cảnh-giới thấp kém của tử-sinh . ( Continually pummeled by the discord of wrong deeds, they slip to the edge of the terrifying abyss of rebirth in the life-cycle, especially its lower state ).Tảng-lờ-không-ngó-ngàng đến những bà mẹ từ-bi nhân-đức này là không biết hổ thẹn. Để báo-ân tôi sẽ giải- thoát họ khỏi khổ đau sinh tử tương-tục và sẽ an-lập họ trong đại-lạc của giải thoát. Chư vị lạt machư thiên, hãy gia-hộ cho tôi làm được điều này.

[ 4: Phát triển tâm từ-bi: Giúp hữu tình mẫu thân làm chủ hạnh phúc và căn nguyên của hạnh phúc ]

Rồi sau đó hãy thiền quán về từ-bi (Love). Hãy tưởng tượng một người bạn quý mến rất nhiều, chẳng hạn như mẹ của bạn “ Làm thế nào để bà ta có thể có được hạnh phúc vô-lậu, hạnh phúc không còn tập khí phiền não, (undefiled happiness: tịnh lạc) khi mà bà không có được ngay cả hạnh phúc hữu lậu (defiled happiness), hạnh phúc vẫn còn tập khí phiền não của cõi đời sinh tử tương tục? Những gì hiện nay bà hãnh-diện khoe-khoang khoác-lác là hạnh phúc thì trơn tuột mất biến thành khổ đau. Bà khao khát và khao khát, nỗ lựcnỗ lực, ham muốn cái hạnh phúc phù du của giây phút thoáng qua (desiring a moment’s happiness), nhưng bà chỉ tạo lập căn-nguyên của khổ đau tương lai và những tái sinh trong những cảnh-giới thấp kém hơn của hữu tình. Nên trong cõi đời này, mệt lử và kiệt sức, bà chỉ tạo ra khốn khổ, khổ đau. Nhất-định-là-dứt-khoát-là, bà không có hạnh phúc thật sự. (She definitely does not have real happiness). Thật là tuyệt diệu biết bao nếu bà làm chủ được hạnh phúc và tất cả căn-nguyên của hạnh phúc. Bà mong muốn làm chủ chúng. (May she possess them!)

Tôi sẽ làm cho bà làm chủ hạnh phúc và tất cả căn-nguyên của hạnh phúc. Chư vị lạt-ma và chư thiên hãy gia-hộ tôi làm được điều này!”

Khi bạn đã đạt được kinh-nghiệm này, hãy tiếp tục thiền quán, trước hết hãy tưởng tượng những người khác thân thiết với bạn, tỉ dụ cha của bạn, và sau đó hãy tưởng tượng một người mà bạn cảm thấy vô tư với họ, và sau đó một người đối nghịch và sau cùng tất cả hữu tình.

[ 5: Phát triển tâm đại bi: Giải cứu khổ đau của hữu tình mẫu thân trong sinh tử tương tục ]

Và rồi sau đó hãy thực hiện pháp thiền đại-bi và trách-nhiệm phổ-quát (Then do the meditation of great compassion and universal responsibility): “Chư vị phụ-thân và mẫu-thân của tôi, số lượng có thể chất đầybầu trời, đang bị buộc chặt vào vòng duyên khởi nhân quả và những thống khổ trong hoàn cảnh bị bỏ rơi, không ai giúp đỡ (helplessly). Bốn dòng sông giòng tương tục của ái dục (desire), giòng tương tục của hữu (existence), giòng tương tục của vô-minh (ignorance), giòng tương tục của tà-kiến [hoặc tin vào đấng tạo lập hữu ngã thường hằng, bản-ngã thường hằng; hoặc tin vào đoạn diệt, không có đời trước đời sau, không có duyên khởi, không có giải thoát (fanaticism: chủ-thuyết tôn giáo cuồng tín vào cực đoan = tà-kiến)], tất cả bốn dòng sông này quét họ vào trong giòng nước lũ của sinh tử tương tục trong cảnh họ bị bỏ rơi, không ai giúp đỡ, vào nơi mà họ bị vùi giập tả tơi hoa lá bởi những con sóng của sinh, già, bệnh và chết. (The four rivers, the rivers of desire, existence, ignorance, and faniticism, sweep them helplessly into the currents of the life cycle, where they are battered by the waves of birth, old age, sickness anh death).

Họ bị trói buộc trọn vẹn vào cái vòng trói chặt chẽ và khó mà phá được các mối nối kết đủ loại của các tác nghiệp duyên khởi nhân quả. Từ thời vô-thủy họ đã bước vào cái lồng sắt của thủ chấp những ý niệm “tôi” và “của tôi” ở ngay tâm điểm của lòng họ. Cái lồng này thì rất khó mà khai mở bởi bất cứ một ai. Bị bao trùm bởi bóng tối mênh mông của vô-minh (=vô thủy vô minh) nên mọi phán đoán thiện ác đều bị ngăn ngại, họ không nhìn thấy, chính lúc này, con đường đưa đến những trạng thái hạnh phúc của hữu-tình. Nói chi đến chuyện họ thấy con đườnggiải thoát và giác ngộ (Much less do they see the path leading to liberation and enlighttenment).

[ 6: Trách nhiệm phổ quát = Bản thệ: Nếu tôi không cứu, ai sẽ cứu? ]

“Những hữu tình tiều tụy này đã bị hành hạ không ngừng nghỉ bởi những khổ đau của khốn khổ (khổ khổ), khổ đau của biến dịch (hoại khổ), và khổ đau lan tràn của tạo tác (hành khổ). Tôi thấy tất cả các hữu-tình này, những mẫu-thân của tôi, đang bị trầm luân thê thảm trong đại-dương của sinh-tử. Nếu tôi không cứu họ, ai sẽ cứu? Nếu tôi tảng-lờ-không-hay-biết đến họ, tôi sẽ không biết xấu hổ là gì, một loại thứ thấp kém nhất trong tất cả hữu-tình. Nguyện-vọng của tôi theo học đại thừa sẽ chỉ thuần là từ-ngữ, và tôi không thể nào trình diện mặt tôi trước Chư Phật và Bồ-Tát. Thế nên, trong mọi hoàn cảnh, tôi sẽ phát triển khả năng cứu vớt tất cả mẫu-thân hiền-đức âu sầu của tôi ra khỏi đại-dương sinh-tử và an-lập họ nơi quả-phật. Hãy nghĩ đến điều này và hãy lưu xuất một trách-nhiệm phổ-quát, dũng mãnh, tinh thànhnhất tâm: chúng sinh vô biên thệ nguyện độ (Think this and generate a very strong and pure universal responsibility).

[ 7: Phát triển Bồ-Đề-Tâm ]

Cuối cùng hãy thiền định về tâm Bồ-đề. Hãy tự hỏi bạn có thể hoặc không thể an-lập tất cả hữu-tình nơi quả phật, và hãy phản-tỉnh (reflect), “Tôi không biết tôi đang đi đâu; làm sao tôi có thể an lập vào chính lúc này, một hữu-tình nơi quả phật? Ngay cả đến những vị đã thành tựu những quả vị học trò của Đức Phật (disciple: Thanh Văn) hoặc ẩn-sĩ Phật ( hermit Buddha: Độc giác Phật) cũng chỉ có thể thành tựu những mục tiêu nhỏ bé của hữu-tình, và không thể an-lập các hữu-tình nơi quả Phật. Thế nên chỉ có một vị Phật toàn giác (a perfect Buddha) mới có thể dẫn tất cả hữu tình đến toàn giác (full enlighttenment). Thế nên trong mọi hoàn cảnh (no matter what), tôi sẽ đạt quả vị Phật Vô-Thượng Chánh-Đẳng-Chánh-Giác (peerless and completely perfect Buddhahood) vì lợi ích của tất cả hữu-tình. Chư vị lạt machư thiên , hãy hoan hỉ gia-hộ tôi làm được điều này!”.

--------------------------------------------------------------------------------------------

CHÚ THÍCH CỦA BẢN DỊCH VIỆT NGỮ

Chú thích 1: Trong bản dịch Việt ngữ, những gì bên trong dấu […] đều là chú thích của người dịch bản Việt.

Chú thích 2:

Bản Anh ngữ: Think this and generate a very strong and pure universal responsibility.

Pure: Clear- clean- does not contain any harmful substances - complete and total – produced or practised according to a standard or form that is expected of it ( Formal )

Universal: 1. of affecting or including all

 2. existing or occuring everywhere

Bản Việt ngữ: Hãy nghĩ đến điều này và hãy lưu xuất một trách nhiệm phổ quát dũng mãnh, tinh thànhnhất tâm: chúng sinh vô biên thệ nguyện độ.

Nhất tâm = dốc lòng.

Universal love = compassion = đại bi, tình yêu phổ quát

Universal responsibility = trách nhiệm phổ quát = tâm đại bi

Mother beings : hữu tình mẫu thân

Chú thích 3

Mười hai chi của một vòng duyên khởi:

1.Vô minh 2.hành 3.thức 4.danh sắc

5.Sáu xứ 6.xúc 7.thọ 8. ái 

9.thủ 10.Hữu 11.Sinh 12.lão tử

Hữu (Bhava: Sanskrit)

Hữu (Existence) là trở thành (becoming). Hữu là tiến trình của nghiệp, là quả của nghiệp hiện tại, nuôi dưỡng bởi Ái và Thủ. Hữu là giai đoạn đi trước giai đoạn tái sinh (new existence): sinh và lão tử. Thế nên Hữu được gọi tên là Hữu, theo quả của nó.

Chú thích 4

Các biểu ngữ về kiến chấp: có 360 vọng kiến (false views) và 62 tà kiến (wrong views) của các triết gia (=nhà ngoại đạo), có thể tóm tắt thuộc hai nhóm có và không (hữu và vô, thường hằng và đoạn diệt-being and non-being, to be and not to be, eternalism and nihilism).

Nhập Lăng già Đại thừa kinh tuyên bố là “…Các triết gia cũng như những kẻ sơ trí, họ tôn quý cái nhị biên giữa có và không (they cherish the dualism of being and non-being)”.

Các pháp do duyên khởi nên không có tự tính.

Whatever depends upon conditions,

That is empty of intrinsic existence. (Tsong Khapa)

Nhân duyên hội hợp nên pháp gọi là có; nhân duyên biệt ly nên pháp gọi là không.

Thế nên duyên khởi (dependent arising) cũng là tinh không (= các pháp đều thiếu vắng cái hiện hữutự tính = chân không = chân không diệu hữu: emptiness, openness), cũng là trung đạo (=lìa hữu vô: middle way, beyond extremes), cũng là như huyễn (illusion).

  •  Kính lễ Đức Phật:

Đức Phật Cồ Đàm Đại Thánh Chủ

Thương xót hữu tình thuyết nhân duyên

Để đoạn dứt tất cả kiến chấp

Nay tôi dốc lòng đảnh lễ Phật

 ( Bồ Tát Long Thọ -- Kệ tụng kết thúc Trung Luận)

  • Bồ Tát Đại Huệ Mahamati tán thán Đức Phật ( Kinh Lăng Già)
Thế gian lìa sinh diệt
Như hoa đốm trên không
Trí chẳng trụ hữu, vô
khởi tâm đại bi

Tất cả pháp như huyễn
Xa lìa nơi tâm thức
Trí chẳng trụ hữu, vô
khởi tâm đại bi

Xa lìa chấp đoạn thường
Pháp thế gian như mộng
Trí chẳng trụ hữu, vô
khởi tâm đại bi
  • Đức Phật giảng về không có tự tính và pháp tu tập vô tự tính trong kinh Lăng Già (trích Lăng Già Nhập Đại Thừa Kinh, bản dịch Thích Chơn Thiện, Trần Tuấn Mẫn trang 164-165):

[76] Lại nữa, này Mahàmati, không phải các sự vật là không được sinh ra, mà chúng không được sinh ra từ chính chúng, trừ phi chúng được quán sát trong trạng thái Tam-ma-địa, đấy là ý nghĩa của “các pháp đều vô sinh”.

Này Mahàmati, theo ý nghĩa thâm sâu nhất thì không có tự tínhvô sinh. Tất cả các pháp khôngtự tính nghĩa là có một sự trở thành luôn luôn có và liên tục, một sự thay đổi từng sát na từ trạng thái hiện hữu này sang trạng thái hiện hữu khác; này Mahàmati, thế thì tất cả các pháp đều không có tự tính. Đấy gọi là tất cả các pháp đều không có tự tính.

Lại nữa, này Mahàmati, vô nhị là gì? Này Mahàmati, đấy nghĩa là ánh sáng và bóng tối, dài và ngắn, đen và trắng là những biểu từ tương đối và cái này không độc lập đối với cái kia; như Niết-bàn và luân hồi, tất cả các sự vật là không-hai, không có Niết-bàn ngoài nơi có luân hồi; không có luân hồi ngoài nơi có Niết-bàn; vì cái điều kiện hiện hữu không có đặc tính độc lập đối với nhau. Do đó mà bảo rằng tất cả các pháp là vô nhị như Niết-bàn và luân hồi vậy. Vì vậy, này Mahàmati, ông phải tu tập (thể nghiệm) cái không, vô sinh, vô nhịvô tự tánh.

Nguồn: Đặc San Hiện Thực số 16/2009 , Năm thứ 5 , trang 154-165

Ảnh minh họa trên: Đại luận sư Vô Trước (Bách khoa toàn thư mở Wikipedia.)

Source: thuvienhoasen


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 18414)
Tôi được Tăng sai phụ trách hướng dẫn Bồ tát Học xứ cho chúng Giới tử tân thọ Bồ tát giới...
(Xem: 16770)
Kinh AN BAN THỦ Ý là một trong những bản kinh được xuất bản sớm nhất ở Viễn Đông và đã góp phần vào việc phổ biến Phật giáo qua việc giảng dạy cách thức thiền tập...
(Xem: 13338)
Bồ tát Long Thọ trước tác Trung luận gồm 27 phẩm (chương) 446 bài kệ, mỗi bài 4 câu, mỗi câu 5 chữ. Ở Ấn Độ các bản luận giải thích như Vô Úy luận...
(Xem: 12820)
Chữ A tỳ đạt ma luận thường để chỉ các luận thư của các bộ phái, chứ không dùng cho các luận thư Đại thừa. Abhidharma, Trung Hoa dịch âm là A tỳ đàm, A tỳ đạt ma, và dịch nghĩa là Vô tỷ pháp, Thắng pháp, Đối pháp.
(Xem: 13651)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32 số 1648 thuộc Luận Tập Bộ Toàn; Ưu Ba Đề Sa; Tăng Già Bà La; HT Thích Như Điển
(Xem: 11816)
Vãng sinh tập đều ghi chép nhiều truyện có thật đời xưa tu Tịnh độ được vãng sinh Tây phương của đủ các hạng người xuất gia lẫn tại gia, của cả loài vật... Chúc Đức dịch Việt
(Xem: 14343)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Luận Tập, Kinh số 1666; Bồ-tát Mã Minh tạo luận; Hán dịch: Chân Đế; Việt dịch: Nguyên Hồng
(Xem: 17839)
Đây là một quyển kinh Phật Giáo rất phổ thông và đã được dịch ra nhiều thứ tiếng quan trọng trên thế giới... Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 22720)
Kinh Pháp Hoa ai cũng biết là bộ Kinh Tối Thượng Thừa mà nó không phải Đại Thừa và cũng gọi là Phật Thừa... HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 13536)
Kinh PHÁP-HOA là một bộ kinh lớn mà từ xưa đến nay, sau khi đức Phật diệt-độ, được lưu thông nhứt và được nhiều người tụng-trì nhứt trong các bộ kinh lớn... HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 15667)
阿 毘 達 磨 俱 舍 論 A Tì Đạt Ma Câu Xá Luận I... dịch theo bản Sanskrit... Tuệ Sỹ
(Xem: 16167)
Phật Thừa Tôn Yếu luận là một trong nhiều tác phẩm của Đại sư Thái Hư, mang ý nghĩa bao quát nội dung giáo nghĩa Đại thừa Tiểu thừa... Thích Thiện Hạnh Dịch
(Xem: 11447)
Kim Sư Tử Chương là một tác phẩm rất ngắn của thầy Pháp Tạng nhưng bao hàm được giáo lý của Kinh Hoa Nghiêm... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 15794)
Luận Phật Thừa Tông Yếutùy thuận theo thời cơ lược nói về tông bảncương yếu của Phật pháp... Nguyên tác: Đại sư Thái Hư; Thích Nhật Quang dịch Việt
(Xem: 13229)
Thiết Lập Tịnh Độ là quyển sách của HT Thích Nhất Hạnh giảng giải về Kinh A Di Đà với góc nhìn thiền học
(Xem: 22037)
Quyển "Thập thiện nghiệp đạo kinh giảng yếu" của ngài Thái Hư Pháp sư, thấy tóm tắt dễ hiểu, lời lẽ giản dị mà ý nghĩa đầy đủ, lại rất hợp với căn cơ hiện tại... Thái Hư
(Xem: 16331)
Bản dịch Việt được thực hiện bởi Nhóm Phiên dịch Phạn Tạng, dựa trên bản Hán dịch của Huyền Trang, A-tì-đạt-ma Câu-xá luận... Tuệ Sỹ
(Xem: 19286)
Theo Viên TrừngTrạm Nhiên (1561- 1626), ở trong Kim cang tam muội kinh chú giải tự, thì Đức Phật nói kinh nầy sau Bát nhãtrước Pháp hoa... Thích Thái Hòa
(Xem: 24980)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
(Xem: 17787)
Hạnh Cơ tập hợp và chuyển dịch từ hai bản Luận: Duy Thức Tam Thập TụngBát Thức Qui Củ Tụng
(Xem: 17175)
Kinh Hoa Nghiêm phát xuất từ Ấn Ðộ, nhưng được phát triển mạnh ở Trung Quốc, Nhật Bản... HT Thích Trí Quảng
(Xem: 18720)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 19149)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18962)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 14489)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, Số 2072, nguyên tác: Minh Châu Hoằng; Nguyên Lộc Thọ Phước
(Xem: 23180)
Chứng Đạo Ca - Nguyên tác: Huyền Giác; Bản dịch thơ Chứng Đạo Ca của H.T Thích Thuyền Ấn, sáng tác những năm tháng từ 1980 - 1990, lúc Ngài đang bị quản thúc.
(Xem: 28661)
Duy Thức Tam Thập Tụng (唯 識 三 十 頌) Tài Liệu Học Tập Lớp Cao Học Triết của Đại Học Văn Khoa Viện Đại Học Vạn Hạnh, Niên Khóa: 1972-1973... HT Thích Thuyền Ấn
(Xem: 15267)
Luận Giải Trung Luận: Tánh Khởi và Duyên Khởi - Hồng Dương Nguyễn Văn Hai do Ban tu thư Phật học Viện Cao Đẳng Hải Đức ấn hành
(Xem: 13780)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, Kinh số 2031 - Hán dịch: Huyền Trang, Việt dịch: HT Thích Trí Quang
(Xem: 16607)
Luận Du Già Sư Địa (Phạn: Yogacàrabhùmi – sàtra), tác giảBồ tát Di Lặc (Maitreya) thuyết giảng, Đại sĩ Vô Trước (Asànga) ghi chép, Hán dịch là Pháp sư Huyền Tráng (602 -664)... Nguyên Hiền
(Xem: 143938)
Đại Tạng Việt Nam bao gồm 2372 bộ Kinh, Luật và Luận chữ Hán và tất cả đã kèm Phiên âm Hán Việt...
(Xem: 16398)
Giới là nguồn cội của hết thảy Thiện pháp, là nền tảng của Tam vô lậu học và mọi quả vị Giải thoát... Nguyên tác: Lý Viên Tịnh; Thích Giác Quả dịch
(Xem: 17514)
Tập Tổng quan kinh Đại Bát Niết-bàn này được chúng tôi biên soạn như một phần trong công trình dịch thuật và chú giải kinh Đại Bát Niết-bàn... Nguyễn Minh Tiến
(Xem: 47467)
Bấy giờ, năm trăm công tử Ly-xa, dẫn đầu bởi Bảo Tích (Ratnākāra), mỗi người mang theo một cây lọng quý, biểu hiệu quyền quý, đến vườn Xoài cúng dường Phật... Tuệ Sỹ
(Xem: 39237)
Trong Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
(Xem: 15848)
“Vũ trụ vạn hữu bản thể luận” của Định Hy là một kiến giải nhân sinh vũ trụ trên hai phương diện bản thểhiện tượng, tuy vậy không rời tính thực dụng của Phật pháp trong đời sống tu tập... Thích Đức Trí
(Xem: 23258)
Niệm Phật Vô Tướng - Lí Luận và Nhập Môn Pháp Môn Niệm Phật Viên Thông của Bồ Tát Đại Thế Chí, Nguyên tác: Tiêu Bình Thật cư sĩ, Cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 16827)
Bản nầy thứ tự kinh văn số 1726 được khắc vào đời nhà Minh Vạn Lịch -Trung Quốc - và đang lưu trữ tại Báo Ân Tạng thuộc chùa Jojoji - Tăng Thượng tự - Tokyo, Nhật Bản... HT Thích Như Điển
(Xem: 14344)
Du Già Sư Địa Luận Thích - Trước tác: Bồ Tát Tối Thắng Tử; Hán dịch: Tam-Tạng Pháp Sư Huyền Trang; Việt dịch: Thích Tâm Châu
(Xem: 13943)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, thuộc Luận Tập bộ toàn. Thứ tự kinh văn số 1663 (562-563)... HT Thích Như Điển
(Xem: 17302)
Tác Giả: Tăng Triệu Ðại Sư - Lược Giải: Hám Sơn Ðại Sư; Việt Dịch: Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 14420)
Toàn thể đại dụng, thu nhiếp xưa nay ngay trên đường; dứt trí tuyệt ngu, vật và ta ngang bằng nơi kiếp ngoại ... HT Thích Thiện Siêu
(Xem: 16971)
Luận về Pháp Hoa Kinh An Lạc Hạnh Nghĩa - Phiên dịch, chú giải: Daniel B. Stevenson & Hiroshi Kanno - Phiên dịch, thi hóa: Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm
(Xem: 28045)
Bộ kinh Lăng Nghiêm Tông Thông này được Ngài Thubten Osall Lama, tức Nhẫn Tế thiền sư, Đức Sơ Tổ Tây Tạng Tự, dịch và chú thích thêm từ bản Hán văn sang Việt văn...
(Xem: 50274)
Khi bạn tiếp tục tiến tới trên đạo lộ một cách đúng đắn, với ý định trở thành một con người giác ngộ, bạn phải kiểm soát tâm theo đúng cách...
(Xem: 38582)
Sách này thâu kết lời giảng của đức Đalai Lama về bài kinh ngắn mang tựa đề Bát Nhã Tâm Kinh, một trong những bộ kinh Phật giáo Ðại thừa quý giá nhất.
(Xem: 28615)
Trọng tâm cứu khổ của Ngài Quán Thế Âm nhằm giải thoát sự khổ tâm, khổ tinh thần. Một khi con người đã giải thoát khổ tinh thần thì thân thể sẽ lành mạnh.
(Xem: 52273)
Đại Luận Về Giai Trình Của Đạo Giác Ngộ (Lamrim Chenmo) - Nguyên tác: Je Tsongkhapa Losangdrakpa - Việt dịch: Nhóm Dịch Thuật Lamrim Lotsawas
(Xem: 35921)
Địa Tạng Bồ Tát Bản Tích Linh Cảm Lục - Liêu Nguyên dịch, Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 32940)
Kinh Kim Cương lấy vô tướng làm tông, vô trụ làm thể, diệu hữu làm dụng. Từ khi Bồ-đề Đạt-ma đến từ Tây Trúc truyền trao ý chỉ kinh này khiến người đời ngộ lý đạo, thấy tính.
(Xem: 50884)
Sự giải thoát tinh thần, theo lời dạy của Ðức Phật, được thành tựu bằng việc đoạn trừ các lậu hoặc (ô nhiễm trong tâm). Thực vậy, bậc A-la-hán thường được nói đến như bậc lậu tận...
(Xem: 63787)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 49777)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 57114)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 47593)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 39441)
Bát Thức Quy Củ Tụng - Những bài tụng khuôn mẫu giảng về tám thức tâm vương; tác giả: Huyền Trang; người toát yếu: Khuy Cơ, người dịch giảng: HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 38494)
Quyển "Vi Diệu Pháp Nhập Môn" ngoài tác dụng của bộ sách giáo Khoa Phật Học; còn là cuốn sách đầu giường của học giả nghiên cứu về Triết lý Ấn độ, cũng như Văn Học A Tỳ Ðàm...
(Xem: 36624)
Như Lai là bậc A-la-hán, chánh đẳng chánh giác, dùng pháp thắng tri (tuệ tri: biết sát na hiện tiền) hay pháp chánh tri kiến để liễu tri sự vật, không dục hỷ...
(Xem: 32259)
Nếu có ai hỏi ngài Duy Ma Cật: “Bản thể của thế giới này là gì?” thì trước sự im lặng của ngài Duy Ma Cật mà lại được Văn Thù Sư Lợi hết sức tán thưởng là có ý nghĩa sâu xa của nó.
(Xem: 46735)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant