Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Pháp Quán Đại Bi

05 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 19467)
Pháp Quán Đại Bi

ASANGA (375-430)
NGÀI VÔ TRƯỚC
PHÁP QUÁN ĐẠI BI
Bản dịch Anh ngữ: “Asanga’s Teaching of Great Compassion.”
Trích từ : Essential Tibetan Buddhism. R.A.F. Thurman.[1996]
Bản dịch Việt Ngữ : Đặng Hữu Phúc

blank[ Tu tập mở đầu ]

Để phát Tâm Bồ đề (The spirit of enlightenment; bodhicitta-sanskrit), bạn trước nhất phải phát triển tâm bình đẳng (equanimity: tâm bình đẳng, tâm xả) đối với tất cả hữu - tình và rồi tư - duy về giáo pháp tâm linh về nhân và quả có bảy chi do ngài Di Lặc giảng cho ngài Vô Trước. Trước nhất, hãy tưởng tượng xuất hiện trước bạn một hữu – tình chẳng hề giúp đỡ bạn cũng chẳng hề gây tổn hại bạn. Hãy nghĩ “Ông này tự thấy ông ta muốn có hạnh phúc và không muốn khổ đau, hoàn toàn giống như mọi người khác cũng đều mong muốn như vậy. Tôi sẽ làm cho tôi thoát khỏi sự yêu thích và không yêu thích. Tôi chẳng muốn cảm thấy thân cận với vài người và giúp đỡ họ trong khi đó cảm thấy xa cách những người khác và làm tổn hại họ. Tôi sẽ phát triển tâm bình - đẳng đối với tất cả hữu - tình. Chư vị lạt machư thiên hãy gia - hộ cho tôi làm được điều này!”

Một khi bạn cảm thấy tâm bình - đẳng đối với người trung - lập đó, hãy tưởng tượng một người mà bạn yêu thích. Hãy cố gắng cảm thấy tâm bình - đẳng đối với người đó. Hãy nghĩ “Lòng thiên lệch của tôi là do lòng yêu thích của tôi. Vì tôi luôn luôn ham muốn những hữu tình quyến rũ, tôi đã tái sinh liên tục trong vòng sinh - tử đầy khổ lụy”. Hãy ngăn chặn lòng ham muốn của bạn bằng tư - duy như thế và hãy thiền định.

Một khi bạn cảm thấy tâm bình - đẳng đối với con người yêu thích đó, hãy tưởng tượng đến một người không yêu thích. Hãy cố gắng cảm thấy tâm bình -đẳng đối với người này. Hãy nghĩ “Bởi vì đã có một sự không hòa thuận giữa chúng tôi, tôi đã phát triển một sự không yêu thích đối với người này và do thế tôi thiếu tâm bình - đẳng. Không có tâm bình - đẳng tôi không thể có tâm Bồ-đề trong tâm trí tôi!” Hãy ngăn chặn lòng không yêu thích của bạn bằng tư-duy như thế và hãy thiền định.

Khi bạn cảm thấy tâm bình-đẳng đối với người không yêu thích đó, hãy tưởng tượng cả hai người chung với nhau. Hãy nghĩ “Hai người này đều giống nhau ở điểm mỗi người tự mình muốn có hạnh phúc và không muốn khổ đau. Nhìn từ quan-điểm của tôi, người này giờ đây tôi thân cận như thế nhưng đã tái sinh làm kẻ thù của tôi vô số lần rồi. Người này tôi cảm thấy bất hòa nhưng đã tái sinh làm mẹ của tôi vô số lần và đã săn sóc tôi với lòng từ-bi, lòng yêu thương. Tôi nên yêu thích người nào đây? Tôi nên oán ghét người nào đây? Tôi muốn cảm thấy tâm bình-đẳng, không vướn vào yêu thích và không yêu thích”. Chư vị Lạt machư thiên, hãy gia-hộ tôi thực hiện được tâm bình-đẳng này.

Một khi bạn đã cảm thọ tâm bình-đẳng như thế, hãy trải rộng tâm này đến tất cả hữu-tình. “Tất cả hữu-tình đều như nhau. Mỗi hữu-tình đều muốn hạnh phúc và không muốn khổ đau. Tất cả hữu-tình đều là người trong gia đình của tôi. Do đó tôi sẽ học tâm bình đẳng và không vướng mắc vào chuyện yêu thích kẻ tôi thấy thân cận và không yêu thích kẻ mà tôi thấy xa cách, giúp đỡ vài người và tổn hại những người khác. Chư vị Lạt machư thiên hãy gia-hộ tôi thành tựu điều này!”.

 [ 1: Tất cả hữu tình đều là mẫu thân ]

Một khi bạn đã phát triển được tâm bình đẳng, hãy thực thi giáo chỉ thứ nhất của bảy giáo chỉ về nhân và quả để đạt đến Tâm Bồ đề. Hãy quán tưởng chư vị lạt machư thiên trước mặt bạn và hãy tư-duy “Tại sao tất cả hữu-tình là người trong gia đình tôi? Vì không có sự khởi đầu của vòng sinh tử, thế nên cũng không có sự khởi đầu của các tái sinh của tôi. Trải qua vô lượng vô biên cuộc sống này, không hình thức sinh sống nào mà tôi không được sinh ra. Trong tất cả hữu tình, không ai mà không là mẹ của tôi trong vô số lần. Mỗi người là mẹ của tôi trong thế giới con người vô lượng lần, và sẽ lại trở thành mẹ tôi nhiều lần nữa”.

Khi bạn đã kinh nghiệm đầy đủ sự thật này, hãy tư-duy về lòng từ-bi (the kindness) mà chúng sinh đã hiển hiện cho bạn khi họ đã là mẹ của bạn. Hãy quán tưởng chư vị lạt machư thiên trước bạn, hãy tưởng tượng rõ ràng mẹ của bạn ở đời này, khi bà còn trẻ và khi bà già dần đi. “Bà không những chỉ là mẹ tôi trong đời này, nhưng bà đã chăm lo săn sóc cho tôi biết bao nhiêu đời qua mà con số không thể đếm được. Trong đời này bà đã từ-bi cho tôi an-trú trong thai-tạng của bà, và khi tôi được sinh ra bà đã thương yêu đặt tôi trên chiếc gối mềm mại và ru tôi trong vòng tay của bà. Bà đã ôm ấp tôi với bộ ngực ấm áp của bà, đã cho tôi bú những giòng sữa ngọt ngào của bà. Bà đã đón chào tôi với nụ cười âu yếmngắm nhìn tôi với đôi mắt hạnh phúc sung sướng. Bà lau sạch nước mũi cho tôi và thu dọn sạch sẽ các thứ tôi bài tiết. Tôi có đau yếu chút ít thì làm bà lo lắng khốn khổ hơn so với cái lo bà có khi bà sắp chết. Xem nhẹ các đau khổ thân tâm, các cơ cực về tinh thần, các lạm dụng, tệ bạc, không quan-tâm chút nào đến chính bà, bà cung cấp cho tôi đầy đủ, sẵn sàng mọi thứ tôi cần cũng y như lúc bà cung cấp thức ăn thức uống và nơi cư-trú. Bà cho tôi vô lượng hạnh phúc và lợi-ích và bảo-vệ tôi tránh khỏi mọi khổ đau và những tổn hại không thể đo lường được”. Hãy tư-duy về lòng từ-bi vô lượng của bà. Và rồi sau đó, cũng theo cách đó, hãy tư-duy về lòng từ-bi của cha của bạn và những người khác thân thiết với bạn, bởi vì họ cũng là mẹ của bạn đã vô số lần.

[ 2: Tưởng nhớ ân đức của tất cả hữu tình mẫu thân ]

Khi bạn có đầy đủ kinh-nghiệm về sự thật này, hãy thiền quán về những hữu-tình bạn cảm thấy vô tư đối với họ (impartial) “Mặc dầu giờ đây có vẻ như họ không có liên quan gì với tôi, họ đã là mẹ của tôi vô số lần, và trong những đời sống đó, họ đã bảo vệ tôi với lòng từ-bi và nhân-đức”. Khi bạn đã có kinh-nghiệm về sự thật này hãy thiền quán về những hữu-tình mà họ giờ đây là đối-thủ đua tranh với bạn. Hãy tưởng tượng rõ ràng trước bạn, và hãy nghĩ: “Làm sao bây giờ tôi có thể cảm thấy rằng những người này là những kẻ thù của tôi? Vì số lượng cuộc đời đã vô lượng, họ đã là mẹ tôi trong vô số lần. Khi họ là mẹ tôi họ đã đem đến cho tôi hạnh phúclợi ích vô lượng và đã bảo-vệ tôi thoát khỏi khổ đau và tổn hại. Nếu không có họ tôi không thể tồn tại ngay chỉ một khoảng thời gian ngắn ngủi và nếu không có tội họ sẽ không thể chịu nổi những đau khổ cơ cực dù chỉ một khoảng thời gian ngắn ngủi. Chúng tôi cảm thấy một sự gắn bó mạnh mẽ như thế trong vô số lần. Thế mà bây giờ họ là những đối-thủ của tôi do duyên khởi vận-hành (due to bad evolutionary actions). Vào một thời gian khác trong tương lai họ sẽ lại là mẹ của tôi, người bảo vệ tôi với lòng từ-bi.” Khi bạn có kinh-nghiệm đầy đủ về sự thật này, hãy thiền quán về lòng nhân-đức của tất cả hữu-tình.

[ 3: Phát triển ý-nguyện báo ân hữu tình mẫu thân ]

Sau đó hãy thiền quán về báo ân tất cả hữu tình, tất cả các bà mẹ của bạn. Hãy quán tưởng chư vị lạt ma và chư thần bảo-hộ (deities) trước bạn và tư-duy. Từ thời vô-thủy những bà mẹ này đã bảo vệ tôi với lòng từ-bi nhân đức. Vậy mà từ đó tới nay (yet as) tâm trí của họ bị phiền não (phiền-động não-loạn) bởi những ma chướng của say mê, mê đắm (demons of addictive passsions) họ đã không có được tâm trí tự chủ và thành ra bị quẩn trí. Họ thiếu con mắt để thấy hoặc con đường đưa tới cõi ngườichư thiên hoặc con đường đưa tới Niết Bàn, tối-thượng thiện-hảo. Họ không có được vị thầy tâm linh, người dẫn đường cho những kẻ mù. Liên tục bị thoi nện bầm dập tả tơi do các tác-nghiệp sai-trái đánh-nhầu-với-nhau-một-trận, họ lăn trượt tới bên bờ vực thẳm dễ sợ của tái sinh trong tương tục của sinh tử, đặc biệt là những cảnh-giới thấp kém của tử-sinh . ( Continually pummeled by the discord of wrong deeds, they slip to the edge of the terrifying abyss of rebirth in the life-cycle, especially its lower state ).Tảng-lờ-không-ngó-ngàng đến những bà mẹ từ-bi nhân-đức này là không biết hổ thẹn. Để báo-ân tôi sẽ giải- thoát họ khỏi khổ đau sinh tử tương-tục và sẽ an-lập họ trong đại-lạc của giải thoát. Chư vị lạt machư thiên, hãy gia-hộ cho tôi làm được điều này.

[ 4: Phát triển tâm từ-bi: Giúp hữu tình mẫu thân làm chủ hạnh phúc và căn nguyên của hạnh phúc ]

Rồi sau đó hãy thiền quán về từ-bi (Love). Hãy tưởng tượng một người bạn quý mến rất nhiều, chẳng hạn như mẹ của bạn “ Làm thế nào để bà ta có thể có được hạnh phúc vô-lậu, hạnh phúc không còn tập khí phiền não, (undefiled happiness: tịnh lạc) khi mà bà không có được ngay cả hạnh phúc hữu lậu (defiled happiness), hạnh phúc vẫn còn tập khí phiền não của cõi đời sinh tử tương tục? Những gì hiện nay bà hãnh-diện khoe-khoang khoác-lác là hạnh phúc thì trơn tuột mất biến thành khổ đau. Bà khao khát và khao khát, nỗ lựcnỗ lực, ham muốn cái hạnh phúc phù du của giây phút thoáng qua (desiring a moment’s happiness), nhưng bà chỉ tạo lập căn-nguyên của khổ đau tương lai và những tái sinh trong những cảnh-giới thấp kém hơn của hữu tình. Nên trong cõi đời này, mệt lử và kiệt sức, bà chỉ tạo ra khốn khổ, khổ đau. Nhất-định-là-dứt-khoát-là, bà không có hạnh phúc thật sự. (She definitely does not have real happiness). Thật là tuyệt diệu biết bao nếu bà làm chủ được hạnh phúc và tất cả căn-nguyên của hạnh phúc. Bà mong muốn làm chủ chúng. (May she possess them!)

Tôi sẽ làm cho bà làm chủ hạnh phúc và tất cả căn-nguyên của hạnh phúc. Chư vị lạt-ma và chư thiên hãy gia-hộ tôi làm được điều này!”

Khi bạn đã đạt được kinh-nghiệm này, hãy tiếp tục thiền quán, trước hết hãy tưởng tượng những người khác thân thiết với bạn, tỉ dụ cha của bạn, và sau đó hãy tưởng tượng một người mà bạn cảm thấy vô tư với họ, và sau đó một người đối nghịch và sau cùng tất cả hữu tình.

[ 5: Phát triển tâm đại bi: Giải cứu khổ đau của hữu tình mẫu thân trong sinh tử tương tục ]

Và rồi sau đó hãy thực hiện pháp thiền đại-bi và trách-nhiệm phổ-quát (Then do the meditation of great compassion and universal responsibility): “Chư vị phụ-thân và mẫu-thân của tôi, số lượng có thể chất đầybầu trời, đang bị buộc chặt vào vòng duyên khởi nhân quả và những thống khổ trong hoàn cảnh bị bỏ rơi, không ai giúp đỡ (helplessly). Bốn dòng sông giòng tương tục của ái dục (desire), giòng tương tục của hữu (existence), giòng tương tục của vô-minh (ignorance), giòng tương tục của tà-kiến [hoặc tin vào đấng tạo lập hữu ngã thường hằng, bản-ngã thường hằng; hoặc tin vào đoạn diệt, không có đời trước đời sau, không có duyên khởi, không có giải thoát (fanaticism: chủ-thuyết tôn giáo cuồng tín vào cực đoan = tà-kiến)], tất cả bốn dòng sông này quét họ vào trong giòng nước lũ của sinh tử tương tục trong cảnh họ bị bỏ rơi, không ai giúp đỡ, vào nơi mà họ bị vùi giập tả tơi hoa lá bởi những con sóng của sinh, già, bệnh và chết. (The four rivers, the rivers of desire, existence, ignorance, and faniticism, sweep them helplessly into the currents of the life cycle, where they are battered by the waves of birth, old age, sickness anh death).

Họ bị trói buộc trọn vẹn vào cái vòng trói chặt chẽ và khó mà phá được các mối nối kết đủ loại của các tác nghiệp duyên khởi nhân quả. Từ thời vô-thủy họ đã bước vào cái lồng sắt của thủ chấp những ý niệm “tôi” và “của tôi” ở ngay tâm điểm của lòng họ. Cái lồng này thì rất khó mà khai mở bởi bất cứ một ai. Bị bao trùm bởi bóng tối mênh mông của vô-minh (=vô thủy vô minh) nên mọi phán đoán thiện ác đều bị ngăn ngại, họ không nhìn thấy, chính lúc này, con đường đưa đến những trạng thái hạnh phúc của hữu-tình. Nói chi đến chuyện họ thấy con đườnggiải thoát và giác ngộ (Much less do they see the path leading to liberation and enlighttenment).

[ 6: Trách nhiệm phổ quát = Bản thệ: Nếu tôi không cứu, ai sẽ cứu? ]

“Những hữu tình tiều tụy này đã bị hành hạ không ngừng nghỉ bởi những khổ đau của khốn khổ (khổ khổ), khổ đau của biến dịch (hoại khổ), và khổ đau lan tràn của tạo tác (hành khổ). Tôi thấy tất cả các hữu-tình này, những mẫu-thân của tôi, đang bị trầm luân thê thảm trong đại-dương của sinh-tử. Nếu tôi không cứu họ, ai sẽ cứu? Nếu tôi tảng-lờ-không-hay-biết đến họ, tôi sẽ không biết xấu hổ là gì, một loại thứ thấp kém nhất trong tất cả hữu-tình. Nguyện-vọng của tôi theo học đại thừa sẽ chỉ thuần là từ-ngữ, và tôi không thể nào trình diện mặt tôi trước Chư Phật và Bồ-Tát. Thế nên, trong mọi hoàn cảnh, tôi sẽ phát triển khả năng cứu vớt tất cả mẫu-thân hiền-đức âu sầu của tôi ra khỏi đại-dương sinh-tử và an-lập họ nơi quả-phật. Hãy nghĩ đến điều này và hãy lưu xuất một trách-nhiệm phổ-quát, dũng mãnh, tinh thànhnhất tâm: chúng sinh vô biên thệ nguyện độ (Think this and generate a very strong and pure universal responsibility).

[ 7: Phát triển Bồ-Đề-Tâm ]

Cuối cùng hãy thiền định về tâm Bồ-đề. Hãy tự hỏi bạn có thể hoặc không thể an-lập tất cả hữu-tình nơi quả phật, và hãy phản-tỉnh (reflect), “Tôi không biết tôi đang đi đâu; làm sao tôi có thể an lập vào chính lúc này, một hữu-tình nơi quả phật? Ngay cả đến những vị đã thành tựu những quả vị học trò của Đức Phật (disciple: Thanh Văn) hoặc ẩn-sĩ Phật ( hermit Buddha: Độc giác Phật) cũng chỉ có thể thành tựu những mục tiêu nhỏ bé của hữu-tình, và không thể an-lập các hữu-tình nơi quả Phật. Thế nên chỉ có một vị Phật toàn giác (a perfect Buddha) mới có thể dẫn tất cả hữu tình đến toàn giác (full enlighttenment). Thế nên trong mọi hoàn cảnh (no matter what), tôi sẽ đạt quả vị Phật Vô-Thượng Chánh-Đẳng-Chánh-Giác (peerless and completely perfect Buddhahood) vì lợi ích của tất cả hữu-tình. Chư vị lạt machư thiên , hãy hoan hỉ gia-hộ tôi làm được điều này!”.

--------------------------------------------------------------------------------------------

CHÚ THÍCH CỦA BẢN DỊCH VIỆT NGỮ

Chú thích 1: Trong bản dịch Việt ngữ, những gì bên trong dấu […] đều là chú thích của người dịch bản Việt.

Chú thích 2:

Bản Anh ngữ: Think this and generate a very strong and pure universal responsibility.

Pure: Clear- clean- does not contain any harmful substances - complete and total – produced or practised according to a standard or form that is expected of it ( Formal )

Universal: 1. of affecting or including all

 2. existing or occuring everywhere

Bản Việt ngữ: Hãy nghĩ đến điều này và hãy lưu xuất một trách nhiệm phổ quát dũng mãnh, tinh thànhnhất tâm: chúng sinh vô biên thệ nguyện độ.

Nhất tâm = dốc lòng.

Universal love = compassion = đại bi, tình yêu phổ quát

Universal responsibility = trách nhiệm phổ quát = tâm đại bi

Mother beings : hữu tình mẫu thân

Chú thích 3

Mười hai chi của một vòng duyên khởi:

1.Vô minh 2.hành 3.thức 4.danh sắc

5.Sáu xứ 6.xúc 7.thọ 8. ái 

9.thủ 10.Hữu 11.Sinh 12.lão tử

Hữu (Bhava: Sanskrit)

Hữu (Existence) là trở thành (becoming). Hữu là tiến trình của nghiệp, là quả của nghiệp hiện tại, nuôi dưỡng bởi Ái và Thủ. Hữu là giai đoạn đi trước giai đoạn tái sinh (new existence): sinh và lão tử. Thế nên Hữu được gọi tên là Hữu, theo quả của nó.

Chú thích 4

Các biểu ngữ về kiến chấp: có 360 vọng kiến (false views) và 62 tà kiến (wrong views) của các triết gia (=nhà ngoại đạo), có thể tóm tắt thuộc hai nhóm có và không (hữu và vô, thường hằng và đoạn diệt-being and non-being, to be and not to be, eternalism and nihilism).

Nhập Lăng già Đại thừa kinh tuyên bố là “…Các triết gia cũng như những kẻ sơ trí, họ tôn quý cái nhị biên giữa có và không (they cherish the dualism of being and non-being)”.

Các pháp do duyên khởi nên không có tự tính.

Whatever depends upon conditions,

That is empty of intrinsic existence. (Tsong Khapa)

Nhân duyên hội hợp nên pháp gọi là có; nhân duyên biệt ly nên pháp gọi là không.

Thế nên duyên khởi (dependent arising) cũng là tinh không (= các pháp đều thiếu vắng cái hiện hữutự tính = chân không = chân không diệu hữu: emptiness, openness), cũng là trung đạo (=lìa hữu vô: middle way, beyond extremes), cũng là như huyễn (illusion).

  •  Kính lễ Đức Phật:

Đức Phật Cồ Đàm Đại Thánh Chủ

Thương xót hữu tình thuyết nhân duyên

Để đoạn dứt tất cả kiến chấp

Nay tôi dốc lòng đảnh lễ Phật

 ( Bồ Tát Long Thọ -- Kệ tụng kết thúc Trung Luận)

  • Bồ Tát Đại Huệ Mahamati tán thán Đức Phật ( Kinh Lăng Già)
Thế gian lìa sinh diệt
Như hoa đốm trên không
Trí chẳng trụ hữu, vô
khởi tâm đại bi

Tất cả pháp như huyễn
Xa lìa nơi tâm thức
Trí chẳng trụ hữu, vô
khởi tâm đại bi

Xa lìa chấp đoạn thường
Pháp thế gian như mộng
Trí chẳng trụ hữu, vô
khởi tâm đại bi
  • Đức Phật giảng về không có tự tính và pháp tu tập vô tự tính trong kinh Lăng Già (trích Lăng Già Nhập Đại Thừa Kinh, bản dịch Thích Chơn Thiện, Trần Tuấn Mẫn trang 164-165):

[76] Lại nữa, này Mahàmati, không phải các sự vật là không được sinh ra, mà chúng không được sinh ra từ chính chúng, trừ phi chúng được quán sát trong trạng thái Tam-ma-địa, đấy là ý nghĩa của “các pháp đều vô sinh”.

Này Mahàmati, theo ý nghĩa thâm sâu nhất thì không có tự tínhvô sinh. Tất cả các pháp khôngtự tính nghĩa là có một sự trở thành luôn luôn có và liên tục, một sự thay đổi từng sát na từ trạng thái hiện hữu này sang trạng thái hiện hữu khác; này Mahàmati, thế thì tất cả các pháp đều không có tự tính. Đấy gọi là tất cả các pháp đều không có tự tính.

Lại nữa, này Mahàmati, vô nhị là gì? Này Mahàmati, đấy nghĩa là ánh sáng và bóng tối, dài và ngắn, đen và trắng là những biểu từ tương đối và cái này không độc lập đối với cái kia; như Niết-bàn và luân hồi, tất cả các sự vật là không-hai, không có Niết-bàn ngoài nơi có luân hồi; không có luân hồi ngoài nơi có Niết-bàn; vì cái điều kiện hiện hữu không có đặc tính độc lập đối với nhau. Do đó mà bảo rằng tất cả các pháp là vô nhị như Niết-bàn và luân hồi vậy. Vì vậy, này Mahàmati, ông phải tu tập (thể nghiệm) cái không, vô sinh, vô nhịvô tự tánh.

Nguồn: Đặc San Hiện Thực số 16/2009 , Năm thứ 5 , trang 154-165

Ảnh minh họa trên: Đại luận sư Vô Trước (Bách khoa toàn thư mở Wikipedia.)

Source: thuvienhoasen


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10371)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12262)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15443)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16690)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12320)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11591)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14360)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 24731)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10763)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
(Xem: 12574)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10482)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12433)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11736)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 12128)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13089)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11527)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 17554)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 21589)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10750)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19384)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12517)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26205)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 14481)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 13824)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16948)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17726)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13248)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12613)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11695)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11705)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 20630)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 19167)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19709)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18808)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 15169)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15129)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 14059)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15608)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 14632)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 15944)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12968)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18561)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
(Xem: 15873)
Luận Văn Tổng Quát Về Đại Thừa do HT. Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 11154)
Nguyên tánh chân nhưlặng lẽsáng suốt không có gì gọi là chúng sanh (ngã), vũ trụ (pháp)...
(Xem: 53808)
Mông Sơn Thí Thực là một nghi thức đã được sử dụng rất phổ cập trong các ngôi Già lam thuộc hệ phái Phật giáo Bắc tông. Có ba loại nghi thức Mông Sơn: Đại Mông Sơn, Trung Mông Sơn và Tiểu Mông Sơn.
(Xem: 13065)
Bồ-tát Mã Minh tạo luận, Tam tạng pháp sư Chân Đế dịch Hán. HT Thích Trí Quang dịch giải Việt
(Xem: 16692)
Các phương thuốc của thế giới này, đa dạng và nhiều vô kể, thế nhưng chẳng có một phương thuốc nào có thể sánh với Đạo Pháp.
(Xem: 15545)
Tạng Luật được hình thành từ những điều luật được đặt ra để chỉnh đốn đạo đức tác phong của chúng đệ tử Đức Phật...
(Xem: 20045)
Tại Na-lan-Đà có một phái tu khổ hạnh, vị đứng đầu là Ni-kiền Thân-Tử, ông có cả nghìn đệ-tử, và có người tôn xưng ông là bậc Thánh...
(Xem: 15640)
Được HT Thích Tuệ Sỹ dịch theo bản Sanskrit, do Nhà xuất bản Phương Đông ấn hành năm Quý Mùi.
(Xem: 15480)
Tiếng Phạn “Sa Di”, ở đây dịch là Tức Từ, ý nói: Dứt ác, hành điều từ, dứt nhiễm ô thế giantừ bi cứu giúp chúng sanh. Còn dịch là Cần Sách, hoặc dịch là Cầu Tịch.
(Xem: 15264)
“Sau khi ta diệt độ, nên tôn trọng, kính quý Ba La Đề Mộc Xoa (Giới) như tối tăm gặp ánh sáng, như nghèo khó được của báu."
(Xem: 10485)
Với Phật giáo, toàn bộ nội dung tư tưởng Phật dạy là lấy con người làm gốc, gắn bó mật thiết với đời sống nhân quần xã hội...
(Xem: 20478)
Đức Phật dạy rằng, người nào sống không giới luật, tuy ở gần ta mà cũng như cách xa ta muôn dặm; người nào sống có giới luật, tuy ở xa ta muôn dặm mà cũng như ở cạnh bên ta.
(Xem: 15627)
Trẫm từng nói: Phật pháp chia ra Đại thừa, Tiểu thừa là việc thuộc về bên tiếp dẫn. Kỳ thật mỗi bước Tiểu thừa đều là Đại thừa, mỗi pháp Đại thừa chẳng lìa Tiểu thừa.
(Xem: 13128)
Tất cả nam nữthế gian giàu sang hay nghèo hèn, chịu khổ vô cùng hoặc hưởng phước vô lượng đều do nghiệp nhân gieo tạo đời trước mà cảm thọ quả báo hiện tại.
(Xem: 20368)
“Nhất thiết hữu vi pháp; Như mộng, huyễn, bào, ảnh; Như lộ diệc như điện; Ưng tác như thị quán.”
(Xem: 13374)
Thành thật luận (Satyasiddhi-sastra) do Ha-lê-bat-ma tạo luận, Cưu-ma-la-thập dịch Hán, Nguyên Hồng dịch Việt, thâu lục trong Đại chính, Đại Tạng Kinh số No 1647.
(Xem: 29106)
Chân Như Quan Của Phật Giáo (Ðặc biệt lấy Bát-Nhã làm trung tâm) Nguyên tác: Kimura Taiken; Việt Dịch: HT. Thích Quảng Độ
(Xem: 11798)
Nguyện cầu hồng ân Tam bảo gia hộ cho toàn thể quý học chúng Bồ tát giới tại gia, có đầy đủ bi trí lực để hoàn thành bản nguyện tự lợi, lợi tha, trong khung trời giải thoát tự tại của chánh pháp Như Lai.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant