Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phụ Lục 1: Yếu Lược

16 Tháng Bảy 201000:00(Xem: 6333)
Phụ Lục 1:  Yếu Lược

NGUYÊN NGUYÊN
Dịch giải
KIM CANG

DIỆU CẢM

Phụ lục 1

YẾU LƯỢC

 

 Nhìn lại lời Kinh, thấy rằng với trí huệbiện tài của Thế Tôn thì lời lẽ của Người không phải là lời lẽ thường. Tất phải là như vậy! Bởi vì lời lẽ thường thì không thể chuyển tải được Diệu Pháp vô ngôn!

 Nói cách khác thì kinh Kim Cang không hề là một bài kinh dễ đọc! Điều đó Tổ Huệ Năng từng nói rõ: “ Phật đã vì những bậc đại tríthượng cănthuyết giảng.”

 Đó là duyên do của phần “Yếu lược” nầy vậy:. Là hi vọng trong muôn một giúp cho việc đọc kinh được dễ hơn!

 Nội dung của “Yếu lược”tóm tắt ý chính của 32 đoạn kinh.

 

Đoạn 1 PHÁP HỘI NHÂN DO

 Đọc đoạn nầy hành giả có thể mường tượng trong trí quang cảnh của rừng Kỳ Đà và vườn Cấp Cô Độc. Hành giả cũng có thể mường tượng mà thấy phong cách của Thế Tôn. Hành giả cũng biết ý nghĩa chân thật của hành vi gọi là “khất thực”.

Đoạn 2 THIỆN HIỆN KHẢI THỈNH

 Đoạn nầy kể lại việc trưởng lão Tu Bồ Đề hỏi Pháp. Hai câu hỏi là: Nếu có người trai lành hoặc gái tốt phát tâm chánh đẳng chánh giác thì phải

  . an trụ tâm như thế nào?

  . hàng phục tâm như thế nào? 

Đoạn 3 ĐẠI THỪA CHÁNH TÔNG

 Thế Tôn thuyết giảng về phép “hàng phục tâm”.

 “Hàng phuc tâm” bằng cách nào? Bằng cách “độ” chúng sinh vào “vô dư niết bàn”.

 Điều đó có nghĩa là sao? Cốt là ở cái thấy không chấp tướng, để thấy chúng sinh trong Như Tánh của chúng.

Đoạn 4 DIỆU HẠNH VÔ TRỤ

 Thế Tôn diễn giải ý “vô trụ” trong hành vi bố thí _ gọi là “bố thí không trụ tướng”. Bố thí mà như thể là không bố thí. Cách bố thí nầy làm phát sinh “phước đức vô tướng”. Phước đức nầy lớn vô lượng.

Đoạn 5 NHƯ LÝ THỰC KIẾN

 Thế Tôn chỉ ra điểm sai lầm thường có trong đại chúng: thấy thân tướng thái tử Tất Đạt Đa mà nghĩ rằng đó là Như Lai.

 Nhân dạng thái tử Tất Đạt Đa thì chỉ mới là một trong ba thân Phật: “hóa thân” . “Như Lai” thì còn hơn thế: còn gồm cả “báo thân” và “Pháp Thân”!

Đoạn 6  CHÁNH TÍN HI HỮU

 Đoạn trên nói về Như Lai vô tướng. Đoạn nầy nói về Phật Pháp vô tướng.

 Phật Pháp vốn vô tướng. Nhưng thường phải dùng lời , là tướng, để chuyển tải. Phật Pháp vô tướng thì tất nhiên không “chấp” được. Khi ta chấp thì tức là ta chỉ chấp lời, cũng nói là “chấp kinh”. Cái mà ta chấp như vậy không phải là Chánh Pháp.

Đoạn 7 VÔ ĐẮC VÔ THUYẾT

 Thế Tôn tiếp tục nói về Pháp vô tướng, với một tên khác là “Pháp vô vi”.

 Lặp lại ý “Không có Pháp nhất định để Như Lai thuyết”.

 Đoạn nầy cũng giải trừ định kiến về “đắc”_ ở đây là “đắc Pháp”. Pháp không thể “đắc”, vì là “vô tướng”, hay “vô vi”.

Đoạn 8 Y PHÁP XUẤT SINH

 Thế Tôn nói về phước đức vô hạn phát sinh từ việc trì tụng và diễn giải kinh Kim Cang. Tuy vậy Thế Tôn cũng nhắc nhở rằng kinh không phải chính là Phật Pháp. Chỉ là « phương tiện », như ngón tay chỉ trăng.

Đoạn 9 NHẤT TƯỚNG VÔ TƯỚNG

 Thế Tôn nói về những quả vị một tu sĩ có thể chứng đắc. Tuy vậy nếu như nói « ta đắc » quả vị nầy hay quả vị khác thì là mê trong « ngã chấp ».

Đoạn 10 TRANG NGHIÊM TỊNH ĐỘ

 Thế Tôn phủ định khái niệm « Tịnh độ » như là có tính không gian và thời gian. Cũng theo đó Người phủ định truyền thuyết Phật Thích Ca xưa được thọ ký nơi Phật Nhiên Đăng. Và cũng theo đó Người thay khái niệm « trang nghiêm Tịnh độ » bằng khái niệm « sinh tâm thanh tịnh ». Ý nghĩa việc « sinh tâm thanh tịnh » được cô đọng trong câu kinh thực quan trọng :

Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm.

Đoạn 11 VÔ VI PHƯỚC TƯỚNG

 Thế Tôn nói về phước đức vô lượng phát sinh từ việc diễn giải kinh nầy cho người khác hiểu. Thứ phước đức nầy cũng được gọi là « Tánh phước đức », tức là thứ phước đức ở bình diện Tánh.

Đoạn 12 NHƯ PHÁP THỌ TRÌ

 Thế Tôn nói về uy lực của kinh nầy : nơi nào có kinh nầy, nơi nào kinh nầy được thuyết giảng thì nơi đó như là có Phật và các đại đệ tử hiện tiền. Có nghĩa rằng dù là nơi được xem như là « phàm tục » cũng trở thành linh thánh. Thế Tôn cũng nói rằng người thọ trì kinh nầy là người thành tựu được Pháp cao quý nhất.

Đoạn 13 NHƯ PHÁP THỌ TRÌ

 Phật thuyết mấy ý sau :

 . Tên kinh là Kim Cang Bát-nhã-ba-la-mật. Hàm ý là kinh có năng lực khai mở trí bát-nhã độ người sang « bờ bên kia ».

  . Phật thuyết Pháp như là một phương tiện chuyên chở Pháp, do đó chớ nên « chấp kinh » như là chân lý nhất định.

  . Qua những khái niệm « vi trần » và « thế giới» Thế Tôn khơi gợi cho thấy rằng chúng ta chưa thấy biết đúng về thế giới nầy. Thế giới nầy huyền vi hơn chỗ ta nghĩ.

 . Thế Tôn nói cho biết rằng không nên dựa vào « tướng » mà nghĩ rằng đã có thấy biết về Như Lai. NhưLai vốn huyền vi hơn chỗ người ta thấy qua « tướng ».

  . Thế Tôn lặp lại ý nói về phước đức lớn phát sinh từ việc trì tụng và diễn giải kinh Kim Cang.

Đoạn 14 LY TƯỚNG TỊCH DIỆT

 Đoạn nầy có mấy ý sau :

  . Trưởng lão Tu Bồ Đề nghe kinh mà ngộ « thực tướng » của mình. « Thực tướng » ấy về sau Thiền gia gọi là « Tánh », hay « Bản lai diện mục ». « Thấy thực tướng » tức là « thấy Tánh ».

 . « Thực tướng » là vượt qua bên kia « tướng », cũng là « vô tướng ». Ba-la-mật, tức là « bờ bên kia », có nghĩa như vậy. Thế Tôn nói rõ ý ba-la-mật trong bố thí ba-la-mật và nhẫn nhục ba-la-mật. Cũng gọi là « bố thí vô tướng’ và « nhẫn nhục vô tướng ».

Đoạn 15 TRÌ KINH CÔNG ĐỨC

 Thế Tôn nói về công đức không thể nghĩ bàn của kinh Kim Cang. Từ đó việc thọ trìdiễn giải kinh nầy tạo nên phước đức rất lớn.

Đoạn 16 NĂNG TỊNH NGHIỆP CHƯỚNG

 Thế Tôn nói rằng công đức phát sinh từ việc trì tụng kinh nầy có khả năng giải trừ ác nghiệp tích lũy từ trước.

Đoạn 17 CỨU CÁNH VÔ NGÃ

 Thế Tôn diễn giải những ý sau :

  . Chấp « ngã tướng » cũng gọi là « ngã chấp ». Còn « ngã chấp » thì là còn chấp có ta, có người. Chẳng hạn như trong việc « độ » thì có phân biệt người độ và người được độ_ tức là có tâm phân biệt « năng độ » với « sở độ ». Hàng Bồ Tát không có cái tâm phân biệt đó. Vì vậy mà nói rằng Bồ Tát thấu lý « vô ngã ».

  . Để thấu lý đó, tức là để cái tâm ngã chấp chuyển hóa thành tâm Bồ Tát như vậy, vốn không có « Pháp » nhất định. Ấy là Thế Tôn có ý ngăn ngừa bệnh « chấp Pháp ». v

Đoạn 18 NHẤT THỂ ĐỒNG QUÁN

 Đoạn nầy có mấy ý sau :

  . Thế Tôn thuyết giảng về năm thứ mắt, cũng có nghĩa là năm trình độ thấy biết.

 Thấp nhất là « nhục nhãn », ấy là khả năng thấy biết giới hạn trong vòng lục trần _ sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.

  Cao nhất là « Phật nhãn », có khả năng « thấy Tánh ».

 Mặc dù Phật và chúng sinh về phương diện « thể » thì là không-hai, nhưng về phương diện « dụng » thì có khả năng có nhiều cấp bậc tiến hóa khác nhau và có nhiều trình độ thấy biết khác nhau .

  . Thế Tôn thuyết giảng về « vọng tâm » dưới những dạng « quá khứ tâm », « hiện tại tâm » « vị lai tâm ».

Đoạn 19 PHÁP GIỚI THÔNG HÓA

 Thế Tôn thuyết giảng về « phước đức hữu tướng »« phước đức vô tướng ».

  « Phước đức vô tướng » thì nhiều và lớn vô lượng

Đoạn 20 LY SẮC LY TƯỚNG

 Thế Tôn nói : Không thể dựa vào « sắc’ và « tướng » mà cho là thấy Như Lai.

 « Như Lai » bao gồm cả ba thân Phật : Pháp thân, báo thân, hóa thân.

Đoạn 21 PHI PHÁP SỞ THUYẾT

 Thế Tôn phá cái chấp về « thuyết Pháp », đồng thời phá cái chấp về « chúng sinh » nghe Pháp.

Đoạn 22 VÔ PHÁP KHẢ ĐẮC

 Thế Tôn phá cái « chấp ngã » và « chấp Pháp », tức là phá cái tâm thấy có sự phân biệt « năng đắc » và « sở đắc » _ trong tư tưởng rằng Phật đắc Pháp vô thượng chánh đẳng chánh giác.

Đoạn 23 TỊNH TÂM HÀNH THIỆN

 Phật Pháp vốn một, không phân biệt cao thấp, có tên gọi là « vô thượng chánh đẳng chánh giác ». « Pháp tướng » thì có nhiều, có tên là những « Pháp lành ».Tu các « Pháp lành » thì là hội nhập với Pháp « vô thượng chánh đẳng chánh giác ».

Đoạn 24 PHƯỚC TRÍ VÔ TỈ

 Thế Tôn chỉ cho thấy rằng thứ phước đức phát sinh từ việc bố thí bảy báu chất cao như vô số núi Tu Di không sánh được với phước trí phát sinh từ việc thọ trìdiễn giải kinh Kim Cang.

Đoạn 25 HÓA VÔ SỞ HÓA

 Thế Tôn phá cái chấp khái niệm « độ » _ trong ý tưởng « Phật độ chúng sinh ». Khi chấp như vậy thì có cái tâm phân biệt « năng độ » với « sở độ ».

 Thế Tôn cũng phá cái chấp khái niệm « phàm phu ». Đó cũng là cái chấp « chúng sinh tướng ».

Đoạn 26 PHÁP THÂN PHI TƯỚNG

 Thêm một lần Thế Tôn nói lên chỗ sai lầm của đại chúng : dựa vào ba mươi hai tướng tốt mà nghĩ là thấy Như Lai. Và Thế Tôn đọc bài « tứ cú kệ » nói rằng không thể dưa vào sắc tướngâm thanh để thấy Như Lai.

Đoạn 27 VÔ ĐOẠN VÔ DIỆT

 Ở đoạn trên Thế Tôn nói không thể dựa trên ba mươi hai tướng tốt để thấy Như Lai. Trong đoạn nầy thì thế Tôn nói rằng cũng không thể loại trừ yếu tố sắc tướng nơi hóa thân Như Lai.

 Thêm một ý nữa : Trong Phật Pháp không có « Pháp đoạn diệt ».

 Đoạn 28 BẤT THỌ BẤT THAM

 Thế Tôn nói về hạnh ba-la-mật của hàng Bồ Tát. Bồ Tát bố thí hay nhẫn nhục thì đều là bố thínhẫn nhục ba-la-mật _ không có lòng mong cầu phước báo.

Đoạn 29 UY NGHI TỊCH TĨNH

 « Tứ uy nghi » trong Phật học chỉ về bốn tướng đi, đứng, nằm, ngồi của Như Lai. Tướng ấy thật thanh tú phi phàm. Tuy vậy không thể dựa vào các tướng ấy mà nói là « thấy Như Lai », bởi vì thật ra không thể nói là NhưLai có đến và có đi.

Đoạn 30 NHẤT HỢP TƯỚNG

 Phàm phu thấy một hạt bụi chỉ là một hạt bụi. Và thấy rằng thế giới là một tướng hòa hợp của các hạt bụi _ để tạo nên « cõi trần ».

 Như Lai thấy hạt bụi không chỉ là một hạt bụi, và thế giới thì không phải là cái thế giới như vậy. Thể Tánh của hạt bụi và của thế giớimột thể thống nhất huyền vi.

Đoạn 31 TRI KIẾN BẤT SINH

 Trước đây Thế Tôn có nói là chớ chấp bốn tướng ngã,nhân, chúng sinh, thọ giả. Vì đều là hư vọng. Và đại chúng hẳn đã có cái thấy biết về ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả như vậy. Ấy là chấp tính hư vọng của các tướng. Nếu thế thì tức là đã không hiểu đúng ý của Thế Tôn vậy !

 Trong đoạn nầy Thế Tôn còn dạy : « Chớ sinh pháp tướng ». Ấy là chớ để pháp tướng che mất Tự Tánh.

Đoạn 32 ỨNG HÓA PHI CHÂN

 Ở những đoạn trước Thế Tôn có nói về thứ phước đức vô lượng phát sinh từ việc đọc tụng kinh Kim Cangdiễn giải cho người khác hiểu.

 Trong đoạn nầy Thế Tôn nói rõ về những điều cơ bản cần diễn giải. Ấy là : « chớ chấp tướng » « như như bất động ».

 - «Chớ chấp tướng », bởi vì tướng giống như những cái bóng lướt qua, không chấp được.

 - « Như như bất động » có nghĩa là phải qua tướng mà thấy « Tự Tánh như như ».

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 40083)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 37276)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 28283)
Sự hiện hữa của các pháp trên mặt hiện tượng của tướng đó là một sự hiện hữu giả hợp do duyên và, mặt khác tánh của chúng là Không cũng do duyên mang lại.
(Xem: 28893)
Bàn tay cầm chiếc chìa khóa vô thườngchánh niệm. Dùng hơi thở chánh niệm ta tiếp xúc với mọi sự vật, quán chiếu và thấy được tính vô thường của mọi sự vật.
(Xem: 27167)
Phật dạy: Tự tính của Không là không nằm trên bình diện có không, không nằm trong khuôn khổ các vọng tưởng, không có tướng sinh, không có tướng diệt, và vượt thoát mọi tri kiến.
(Xem: 34627)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 27799)
Tôi nghĩ nhiệm vụ quan trọng nhất của bất cứ một hành giả của một tôn giáo nào là thẩm tra chính họ trong tâm hồn của chính họ và cố gắng để chuyển hóa thân thể, lời nói
(Xem: 33280)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 28562)
Khi Phật thành đạo là do đạt được Trí Tuệ hay Giác Trí Tuệ thì các pháp giải thoát được thiết lập thực hành Giác Trí Tuệ trong các thời thiền tập.
(Xem: 30062)
Khi tuệ giác nội quán của chúng ta vào trong bản chất tối hậu của thực tạiTính Không được sâu sắc và nâng cao, chúng ta sẽ phát triển một nhận thức về thực tại...
(Xem: 25487)
Thông thường mà nói Bát Nhã có ba ý nghĩa. Thứ nhất là thực tướng, tướng là tướng trạng, thực tướng chính là hình ảnh chân thực. Nghĩa thứ hai là quán chiếu Bát Nhã, cũng chính là chỗ dụng của thực tướng.
(Xem: 51286)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 26719)
Tận cùng tư duy của Đạo Phật quan tâm, định luật căn bản là: chúng ta muốn hạnh phúc. Quyền căn bản của chúng tađạt được hạnh phúc.
(Xem: 28620)
Khi chúng ta nói về từ bi, thật đáng khuyến khích để lưu ý rằng bản chất tự nhiên của con người, tôi tin, là từ bihiền lành.
(Xem: 24347)
Tự tánh giả danh hay tùy thuộc cũng nằm trong phạm trù Tánh không. Tự tánh giả danh được thể hiện tướng sanh diệt do tác động thời gian thì có sanh có diệt...
(Xem: 27454)
Tuệ quán là tri nhận một cách sáng suốt, vô thời gian. Vì lẽ chơn thức (tri giác nguyên sơ) là một điểm nhận thức có thật trong động tác nhận thức đầu nguồn của tri giác.
(Xem: 31924)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 30182)
Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có thiện nam, thiện nữ nào muốn vì chúng sinh mà nói kinh Pháp Hoa này thời thiện nam hay thiện nữ ấy phải vào nhà Như Lai... Pháp sư Thích Thiện Trí
(Xem: 27698)
“Dược Sư Lưu Ly Quang” là tên gọi của đức Phật này; “Như Lai” là một trong mười tôn hiệu của mỗi vị Phật; “Bổn Nguyện” là các lời phát nguyện của đức Phật này khi Ngài phát tâm Bồ-đề...
(Xem: 35440)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 27438)
Ngày nay, Kinh Chuyển Pháp Luân thuộc Tương Ưng Sự ThậtTương Ưng Bộ SN 56.11 trong kinh điển Pali được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật.
(Xem: 31767)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 24178)
Cách mà chúng ta đang sống sẽ là một trong các nhân tố chính yếu có thể mang lại cho chúng ta sự thanh thảnđiềm tĩnh trong giây phút lâm chung.
(Xem: 23013)
Kinh này có tám phương pháp tu hành thành Phật, mà bậc Đại nhân gánh vác sự nghiệp lớn liễu sinh thoát tử, hóa độ chúng sinh cần phải giác ngộ, nên gọi là Kinh Tám Điều Giác Ngộ Của Bậc Đại Nhân.
(Xem: 26648)
Nếu chúng ta thẩm tra thế giới tinh thần của chúng ta, chúng ta thấy rằng có những nhân tố tinh thần đa dạng có cả những khía cạnh tích cựctiêu cực.
(Xem: 28244)
Càng trau dồi, Giác Trí càng khai mở thì Pháp Phật càng sáng tỏ hơn; giống như càng nghiên cứu học hỏi thì kiến thứctư tưởng càng phong phú và sâu sắc hơn.
(Xem: 29383)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 33285)
Hình ảnh của Bồ Tát Địa Tạng với khuôn mặt đôn hậu, từ ái, đầu đội mũ tỳ lư, tay cầm tích trượng là một hình ảnh luôn tỏa sáng trong tâm khảm của những người con Phật...
(Xem: 21767)
Để dễ tiếp cận, chúng ta sẽ nêu câu hỏi cụ thể, rằng “Ai đã vượt qua cả thiện và ác?” và các trích dẫn nơi đây sẽ chỉ tập trung riêng vào Kinh Pháp Cú (Dhammapada).
(Xem: 20616)
Theo Trung Quán, duyên khởi không có nghĩa là nguyên lý của một tiến trình ngắn ngủi, mà là nguyên lý về sự lệ thuộc vào nhau một cách thiết yếu của các sự vật.
(Xem: 22248)
Vì sự vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, nên tâm khôngtự tính. Sáu thức hay tâm thức đã vô thường thì nó cũng không có chơn thật.
(Xem: 23988)
Nói khái quát, Phật giáo quan niệm thực tại không ngừng biến chuyểnbác bỏ khái niệm bền vững lâu dài. Tất cả là một dòng sát na sinh diệt liên tục, tất cả là lưu chú...
(Xem: 22865)
Với hy vọng và một cảm giác hạnh phúc, thân thể chúng ta cảm thấy an lạc. Vậy nên hy vọnghạnh phúc là những nhân tố tích cực cho sức khỏe của chúng ta.
(Xem: 23204)
Một quan điểm khách quan mà nói, các kinh dù nguyên thủy hay phát triển, cốt tủy Giác Ngộ được Cứu CánhGiải Thoát khỏi dòng Tâm Thức vẩn đục...
(Xem: 30412)
Mục tiêu cuối cùng của việc học Phật là khai trí huệ. Trí huệ từ Định lực mà có, cũng chính là do tâm thanh bình đẳng mà có...
(Xem: 21785)
Sodpa hay Nhẫn nhục ba la mật là một trong những pháp thực hành Bồ tát đạo quan trọng nhất. Có những hoàn cảnh đặc biệt bạn cần phải thực hành hạnh Sodpa.
(Xem: 19262)
Với Phật giáo, sống là sống với. Do đó, bạn bè là một thuộc tính riêng có của các loài chúng sanh nói chung và của con người nói riêng...
(Xem: 20152)
Muốn đền đáp ân đức cha mẹ là khi cha mẹ chưa có lòng chính tín thì khuyên bảo cha mẹ có lòng chính tín để có được nơi an ổn từ niềm tin đó...
(Xem: 32722)
Pháp sư Ấn Hải dịch từ Nhật ngữ sang Hoa ngữ vào năm 1987, Thích nữ Viên Thắng dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ vào năm 2011
(Xem: 34013)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 27767)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 23823)
Tâm kinh Bát-nhã là một bản kinh trọng yếu trong nhà Thiền, bản kinh này nói về “tánh không” của các pháp. Người tu Phật phải mở được cánh cửa trí tuệ...
(Xem: 23207)
Từ bi bác ái, tự giác giác tha. Ấy là mục đích của bậc chơn tu chánh đạo. Xưa, Phật ra đời khai môn giáo hóa, tế độ quần sanh trong bốn mươi chín năm...
(Xem: 28166)
Ngay từ lúc hóa sinh ở đấy, nguyện cho con đạt đến chính tư duy, chính định, tâm linh không điều kiện của giác ngộ, vô tận biện tài, và vô số kho tàng của tuyệt diệu như thế...
(Xem: 19207)
Ở một chừng nào đó có thể hiểu, đi theo con đường của Phật, noi theo công hạnh của Phật, để cuối cùng được kết quả như Phật… thì được xem là đang làm việc Phật.
(Xem: 24596)
Nội dung của Kinh Di Giáo là những lời dạy của đức Thế Tôn trước khi nhập diệt. Lời lẽ đã tha thiết, ý nghĩa lại sâu xathực tế.
(Xem: 21430)
Bổn phận của người Xuất Giatu đạo, truyền đạoduy trì Phật giáo, cho đến thực hiện tinh thần Bồ-tát nhập thế, còn bổn phận của người Tại Gia là ở bên ngoài hộ trì Phật giáo.
(Xem: 23847)
Diệu Pháp Liên Hoa, đề kinh được cấu tạo theo thể cách Pháp và Dụ. Diệu Pháp ám-tỷ cho cái Tri Kiến Phật nhiệm mầu vốn có của tất cả chúng sanh...
(Xem: 29404)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 31024)
Mục đích của Phật pháp không ngoài việc giúp chúng sinh giác ngộ tự tâm, xa lìa khổ đau đạt được an lạc... Thích Tâm An biên dịch
(Xem: 25333)
Thân tất cả chư Phật, Là thân một đức Phật. Một tâm một trí huệ, Lực vô úy cũng thế... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 20138)
Nghiệp báo, trước tiên nhất có nghĩa là hành động. Chúng ta phân biệt một loại nghiệp báo, là bản chất tinh thần, một nhân tố tinh thần...
(Xem: 19036)
Theo lời dạy của Đức Phật, sắc sanh như là các hạt nhỏ. Các hạt nhỏ này có thể nhỏ hơn các nguyên tử. Khi quý vị thực hành thiền tứ đại một cách có hệ thống...
(Xem: 20158)
Diệu pháp đại thừa pháp Liên hoa một đóa trăng Cõi trời người cung kính Quy mạng đốn giác môn.
(Xem: 20035)
Đức Phật là vị thầy, người hướng dẫn và chỉ đạo tâm linh của chúng ta. Do thế, những hành vi thân thể, lời nóitư tưởng phải phù hợp với lời dạy của ngài.
(Xem: 19400)
Chúng ta sống trong không gian vô cùngthời gian vô tận tất phải có nhận thức về thế gian. Thế gianmột thế giới hiện tượng lưu chuyển mãi...
(Xem: 22568)
Tất cả các đệ tử đã đến đây, bởi đang tìm kiếm sự giải thoáthạnh phúc vô song tối thượng của sự toàn giác. Mọi người tập họp ở đây vì chúng sinh, vì Giáo Pháp...
(Xem: 31134)
Vâng, để Giác Ngộ, chỉ cần xoáy vào một chữ tâm đó thôi. Chỉ cần an trụ, chỉ cần hàng phục được cái tâm đó là xong! Nghĩa là trở thành một bậc Giác ngộ, ngang hàng với Phật...
(Xem: 19701)
Hạnh phúc hay khổ đau trong kiếp sống hiện tại và tương lai đều là kết cục của những ý nghĩ và hành động trong kiếp sống quá khứ hay bây giờ của chúng ta...
(Xem: 19693)
Một khi chúng ta chấp nhận một truyền thống tôn giáo, thì điều ấy phải trở thành một bộ phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant