Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bài Thứ 9: Chương Tịnh Chư Nghiệp Chướng

23 Tháng Bảy 201000:00(Xem: 7246)
Bài Thứ 9: Chương Tịnh Chư Nghiệp Chướng

PHẬT HỌC PHỔ THÔNG
Hòa Thượng Thích Thiện Hoa
Thành Hội Phật Giáo TP. Hồ Chí Minh Ấn Hành 1997
KHOÁ THỨ 8: KINH VIÊN GIÁC

BÀI THỨ CHÍN

1. Ngài Tịnh Chư Nghiệp Chướng bồ tát hỏi Phật
2. Phật khen ngài Tịnh Chư Nghiệp Chướng bồ tát
3. Phật trả lời: Do chúng sanh vọng chấp 4 tướng
4. Đem vô minh cầu Đạo, không thể thành Đạo được
5. Phật nói bốn tướng
6. Vì không rời được bốn tướng nên tu chẳng thành Phật
7. Thương, Ghét là gốc của sanh tử luân hồi
8. Phật chỉ ngã tướng núp ẩn trong tàng thức
9. Không thấy người hủy nhục, không thấy mình thuyết pháp độ sanh, lúc bấy giờ ngã tướng không còn.
10. Vì còn ngã tướng nên không nhập được Viên Giác
11. Phật dạy phương pháp nhập Viên giác
12. Phật nói bài kệ tóm tắt lại các nghĩa trên

IX. CHƯƠNG TỊNH CHƯ NGHIỆP CHƯỚNG

1.Ngài Tịnh Chư Nghiệp Chướng bồ tát hỏi Phật

Khi ấy ngài Tịnh Chư Nghiệp Chướng bồ tát(1) ở trong đại chúng đứng dậy đi quanh bên hữu của Phật ba vòng, rồi lạy Phật và qùy thẳng chắp tay, bạch rằng:

-Bạch đức Đại bi Thế Tôn, Ngài đã vì chúng con rộng nói “nhơn địa tu hành(2) của các đức như Lai, toàn những việc cao siêu mầu nhiệm, không thể suy nghĩluận bàn được, khiến cho đại chúng đặng lợi ích chưa từng có.

Chúng con là hàng Bồ tát rất vui mừng, vì tất cả cảnh giới tu hành cần khổ của đức Điều Ngự(3) trải qua vô số kiếp, nhiều như cát sông Hằng, mà chúng con chỉ thấy như trong một niệm

-Bạch đức Thế Tôn, nếu cái tâm Viên giác này tánh nó vốn thanh tịnh, vậy nhơn cái gì mà nhiễm ô và vì sao khiến cho c húng sanh mê muội, chẳng nhập được tánh Viên giác?

Cúi xin đức Như Lai, rộng vì chúng con, khai ngộ Pháp tánh(4) , làm cho đại chúng hiện tạichúng sanh đời sau, đều được con mắt trí huệ.

Ngài Tịnh Chư Nghiệp Chướng bồ tát thưa thỉnh như vậy ba lần, cúi đầu kính lạy rồi trở lui.

 

LƯỢC GIẢI

Đại ý đoạn này Ngài Tịnh Chư Nghiệp Chướng Bồ tát hỏi Phật: “.. tánh Viên giác đã thanh tịnh, vậy nhơn cái gì mà nhiễm ô? Va vì sao làm cho chúng sanh mê muội không nhập được tánh Viên giác...”. Đoạn này giống như trong kinh Lăng Nghiêm, Ông Phú Lâu Na hỏi Phật: “Tất cả chúng sanh vì sao có vọng, tự che lấy chơn tâm mà phải chịu trầm luân?...”

 

_________

(1) Câu “Tịnh Chư Nghiệp Chướng bồ tát” Cổ đức dạy: “Phật cao nhứt xích, ma thắng nhứt trượng”, nghĩa là Phật cao 1 thước thì ma hơn 10 thước. Khi chưa tu, vì thuận theo phiền não nghiệp chướng, nên chẳng thấy phiền não nghiệp chướng làm chướng ngại. Đến khi hạ thủ công phu, đi ngược dòng phiền não, lúc bấy giờ mới thấy phiền não nghiệp chướng các bịnh hiện ra vô số. Các phiền não nghiệp chướng này do bốn tướng Ngã, Nhơn, Chúng sanhThọ giả mà sanh ra. Vì thế nên chương này, Ngài Tịnh Chư Nghiệp Chướng bồ tát đứng lên thưa hỏi, cầu Phật chỉ dạy phương pháp dẹp trừ các nghiệp chướng về Tâm bệnh. Đến chương dưới Phật sẽ nói rõ về bệnh tà sư

(2) Nhơn địa tu hành tức là ba pháp môn Phật dạy ở chương trên (xa ma tha, Tam ma bát đề và Thiền na). Nhơn nghe thấy Phật dạy pháp môn tu, cũng như thấy tất cả công dụng tu hành của các đức Phật trải qua bao nhiêu kiếp lao khổ, như trong một niệm, cho nên nói là “việc không thể nghĩ bàn”

(3) Điều ngựĐiều phục ngự trị các phiền não ma quân. Đây là một hiệu trong 10 hiệu của Phật (Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến tri, v.v..)

(4) Pháp tánh: Tánh các pháp. CÁc pháp tuy ngàn sai muôn khác, nhưng đồng một bản tánh nên gọi là “pháp tánh”, tức là biệt danh của Viên giác.

 

******

2.Phật khen Ngài Tịnh Chư Nghiệp Chướng bồ tát

Khi ấy đức Thế Tôn bảo ngài Tịnh Chư Nghiệp Chướng bồ tát mà dạy rằng:

-Này Thiện nam, hay lắm và quý lắm! Ông vì các vị Bồ tát hiện tạichúng sanh đời sau, thưa hỏi Như Lai, phương tiện như vậy. Các ông nên chăm chú nghe, ta sẽ vì các ông chỉ giáo.

Khi ấy Ngài Tịnh Chưa Nghiệp Chướng bồ tát cùng đại chúng đều hoan hỷ và yên lặng vâng nghe lời Phật chỉ dạy

 

LƯỢC GIẢI

Đoạn này Phật khen ngài Tịnh Chư Nghiệp Chướng bồ tát, vì đại chúng hiện tạichúng sanh đời sau, thưa hỏi những lời rất hữu ích.

 

***

3.Phật trả lời: Do chúng sanh vọng chấp bốn tướng

-Này Thiện nam! Tất cả chúng sanh từ hồi nào đến giờ, do vọng tưởng điên đảo, chắp bốn tướng: Ngã, Nhơn, Chúng sanhThọ mạng, cho là thật thể của ta; rồi sanh ra hai cảnh: thương và ghét. Thế là ở nơi thân thể này đả hư vọng, lại chấp them cái hư vọng nữa.

Bởi hai lớp vọng nương nhau, sanh ra các vọng nghiệp. Vì có vọng nghiệp nên vọng thấy có sanh tử luân hồi. Những người nhàm chán sanh tử luân hồi thì lại vọng thấy có Niết bàn.

Bởi thế nên không thể nhập được Viên giác thanh tịnh; chớ không phải tánh Viên giác này chống cản không cho chúng sanh nhập. Và những người nhập được, cũng không phải tại tánh Viên giác chấp thuận hay cho họ nhập vậy. Thế nên kẻ khởi niệm hay người dứt niệm cũng đều là mê muội. Tại sao thế? - Bởi vì vô minh đã khởi sẵn (bổn khởi vô minh) và làm chủ tể từ vô thỉ vậy.

 

LƯỢC GIẢI

Đoạn thứ nhứt, Ngài Tịnh Chư Nghiệp Chướng Bồ tát hỏi Phậ: “... Cái tâm viên giác này vốn đã thanh tịnh, vậy nhơn cái gì mà nhiễm ô? Và vì sao khiến cho chúng ta sanh mê muội chẳng nhập được viên giác?..”

Đến đoạn này Phật trà lời, đại ý nói: Bởi tất cả chúng sanh từ hồi nào đến giờ, do vọng tưởng điên đảo, chấp bốn tướng (Ngã, Nhơ, chúng sanh, Thọ mạng) là thật thể của Ta, là lớp hư vọng thứ nhứt. Rồi khi gặp cảnh thuận với ta thời thương, cảnh nghịch với Ta lại ghét, là lớp hư vọng thứ hai. Vì thế mà nhiễm ô. Đây là Phật trả lời về câu hỏi thứ nhứt: Nhơn gì mà nhiễm ô?

Nhơn cố chấp thật có Ta, cho nên mới sanh ra thương ghét, vì thương ghét nên trở lại chấp thật có Ta. Bởi hai lớp vọng này nương nhau, nên sanh ra các vọng nghiệp. Vì thế mà chúng phàm phu vọng thấy có sanh tử luân hồi trong 6 đạo. Hàng Tiểu thừa nhằm chán sanh tử luân hồi thì lại vọng thấy có Niết bàn; rồi trầm không thú tịch tham luyến nơi cảnh Niết bàn. Bởi thế nên không nhập được tánh viên giác thanh tịnh, chớ chẳng phải tánh Viên giác không cho họ nhập vậy. Đây là Phật trả lời câu hỏi thứ hai: Vì sao khhiến cho chúng sanh mê muội, chẳng nhập được Viên Giác?

Phật lại dạy tiếp: Những người nhập được, cũng không phải do tánh Viên giác chấp thuận cho họ nhập. Bởi thế nên chúng phàm phu khởi niệm, hay hàng Nhị thừa dứt niệm, đều là vô minh mê muội cả, chớ không dính líu gì đến tánh Viên giác vậy.

 

******

4.Đem vô minh (ngã, tướng v.v...) mà cầu đạo, thì không thể thành đạo được

-Này Thiện nam! Tất cả chúng sanh, sống không có con mắt trí huệ, nên không tự thấy cả thân tâm này (ngã tướng) đều là vô minh. vì ngã tướng (thân tâm) do vô minh sanh, nên chúng sanh không đủ can đảm tự tiêu diệt ngã tướng, cũng như người không thể tự sát lấy mình được.

Bởi chấp thân này là Ta, nên cảnh nào thuận với ta thì sanh ra thương yêu; còn cảnh nào nghịch với Ta thì lại sanh ra oán ghét. Do tâm thương ghét này, trở lại tiếp tục nuôi dưỡng vô minh. Vì thế nên chúng sanh cầu Đạo, đều không th ành được Đạo

 

LƯỢC GIẢI

Đại ý đoạn này Phật dạy rằng: TẤt cả thân tâm của chúng sanh đều do vô minh sanh; song vì chúng sanh (ngã tướng) đã từ vô minh sanh, nên không đủ can đảm tiêu diệt vô minh (ngã tướng) của mình. Cũng như người không thể tự sát mình được.

Vô minh đã sanh ra ngã tướng, rồi từ ngá tướng sanh ra thương ghét, rồi trở lại làm tăng thế lực cho nước. Bởi vô minh huân tậptu dưỡng lẫn nhau, tiếp nối không ngừng, nên chúng sanh dầu có cần khổ tu đạo mà bốn tướng (ngã, Nhơn, v.v..) không rời, thì quyết định chẳng thành Đạo.

Giống như trong Kinh Lăng NGhiêm, Phật dạy: “... Nếu dùng gốc rễ của vọng tâm làm tu nhơn, thì không thể nào thành được Đạo). Đem tâm đời mà làm Đạo, thì Đạo cũng trở thành đời!

Trong kinh Viên giác lược sớ chép: “Dùng tâm mê muội (Vô minh) mà cầu đạo, dầu cho siêng năng khổ hạnh tu đủ các pháp môn, cũng chỉ giúp thêm lực lượng cho vô minh mà thôi, chớ không thành được quả vị Phật.

Phải biết: Gốc từ vô minh sanh ra thương ghét, rồi do thương ghét trở lại huân tập thành vôminh. Từ chủng tử sanh hiện hành, rồi hiện hành huân làm chủng tử nối nhau không dứt. Chúng sanh đem cái vô minh này mà cầu Đạo thì trọn đời không thể thành tựu.

Kinh Bảo Tích chép: Đối với thân này, sanh yêu quý, thế là không rời tướng Ngã, Nhơ; dùng cái tướng Ngã, Nhơn này mà tu hành thì trở lại đọa ác thú.

 

****

5.Phật nói bốn tướng:

A. NGÃ TƯỚNG

-Này Thiện nam! Thế nào là “Ngã tướng”? - Tất cả chúng sanh tự tâm chứng nhận biết có Ta (ngã tướng) vậy. Thí như có người thân thể điều hòa không có chút gì trái ý, tợ hồ như quên mình (lúc ấy không thấy ngã tướng hiện). Đến khi điều dưỡng bị thất thường, thân thể mất thăng bằng, hoặc gặp phải những cảnh trái nghịch, như gai đâm hay lửa đốt v.v... lúc bấy giờ mới thấy cái Ta (ngã tướng) hiện ra rất rõ rệt. Vì thế mà chứng biết có cái Ta.

-Này Thiện nam! SÂu t hêm một từng nữa, cái Ngã tướng có phần vi tế hơn trước, là người tu hành, tron glúc thấy minh có chứng quả, có đắc đạoCho đến khi chứng quả Như Lai, hay đặng Niết bàn thanh tịnh của Phật, mà nếu còn cái tâm biết mình có chứng và có đặng, như thế cũng đều còn “Ngã tướng”.

 

LƯỢC GIẢI

Đoạn này Phật chỉ rõ cái Ngã tướng (ta) có thô và tế.

1. Trong lúc bình thường thì cái Ta hiện ra không rõ rệt, đến khi nghịch cảnh, bị người đánh đập hoặc hủy nhục v.v.. lúc bấy giờ cái Ngã tướng hiện ra mới rõ ràng. Đâylà cái NGã tướng thô.

2. Người tu hành, một mình ở trong núi sâu rừng thẳm, không gặp các cảnh thuận nghịch, tâm không phân biệt mình với người, lúc bấy giờ tưởng mình đã chứn gđược “vô ngã” rồi. Đến khi gặp cảnh buồn vui thử thách, tâm mừng giận nổi lên, lúc bấy giờ Ngã tướng hiện ra y nguyênCho đến lúc tự thấy mình đắc Đạo hay chứng Niết bàn tịch tịnh của Như Lai cũng đều còn NGã tướng, song có phần vi tế hơn trước. Bởi vì còn biết có Niết bàn hay quả Phật sở chưng (được chứng), tất nhiên phải có cái Ta “năng chứng”. Nếu năng chứng và sở chứng chưa hết (bỉ, thử chưa trừ) tức là còn Ngã tướng.

 

B. NHƠN TƯỚNG

-Này thiện nam! Thế nào là Nhơn tướng? -Tất cả chúng sanh, tự tâm hiểu ngộ Ta đây là người vậy (nhơn tướng), nghĩa là hiểu ngộ ta là người và các ngươi cũng là người (nhơn tướng). Nói rộng ra, hiểu ngộ ngoài TA (ngã) thì tất cả đều là người vậy.

-Này thiện nam! Đi sâu vào một từng nữa, cái “nhơn tướng” có phần vi tế hơn, là cái tâm này, cho đến hiểu ngộ rắng: “còn biết mình viên ngộ Niết bàn”, cũng dều còn Ngã tướng; nghĩa là ở nơi tâm, nếu còn một chút ngộ rắng : “Chứng lý đầy đủ”, thì đều gọi là “Nhơn tướng”.

 

LƯỢC GIẢI

Đoạn này Phật chỉ rõ cái “nhơn tướng” có thô và tế.

1. CHúng sanh tự công nhận mình là người (nhơn) và các người cũng là người (nhơn). Nói rộng ra, ngoài mình (Ta) thì tất cả kẻ khác đều là người (nhơn). Đây là cái nhơn tướng thô thiển

2. Đi sâu vào một từng nữa, cái Nhơn tướng có phần vi tế hơn, là cái “tâm hiểu biết” này, cho đến nếu còn hiểu biết: “mình có viên ngộ Niết bàn”, cũng còn Ngã tướng. Nghĩa là: hễ còn có một chút hiểu biết, thế là con “nhơn tướng”. CÁi nhơn tướng này rất là vi tế.

Tóm lại, nếu còn có một chút hiểu ngộ rằng: “Mình viên ngộ Niết bàn”, thế là cái “hiểu ngộ” và có cái “mình viên ngộ” khác nhau. Vậy thời ngoài mình (mình viên ngộ) còn có Nhơn tướng (cái hiểu ngộ) vậy.

Nói lại cho dễ hiểu: còn có TA viên ngộ Niết bàn, tức là NGã tướng, cái “biết ta viên ngộ” đó là nhơn tướng.

 

C. CHÚNG SANH TƯỚNG

-Này thiện nam! Thế nào là chúng sanh tướng? - Tất cả chúng sanh ở nơi tự tâm không còn chấp mình là Ngã và Nhơn mà lại chấp là chúng sanhTỷ như có người nói như thế này: “Tôi đây là chúng sanh”. Bởi thế nên biết: Người kia nói “Tôi là chúng sanh” thì biết không phải Ngã và Nhơn.

-Này thiện nam! Những chúng sanh rõ biết hai món tướng trước (sở chứng, sở ngộ) là thuộc về Ngã và Nhơn, nay không còn chấp Ngã, Nhơn nữa; nhưng còn cái “tâm rõ biết”, đó là chúng sanh tướng.

 

LƯỢC GIẢI

Đoạn này Phật nói chúng sanh tướng có hai phần thô và tế.

1. Không còn chấp ta đâylà Ngã hay Nhơn mà lại chấp là chúng sanh. Như thế là chấp về phần thô.

2. Rõ biết hai tướng Ngã và Nhơn là phi, nên không còn chấp; thế là đã cao hơn trước một từng, nhưng còn cái “rõ biết hai tướn gNgã, Nhơn là phi”. Đó cũng là cái vi tế Ngã tướng còn ẩn phục bên trong, gọi là chúng sanh tướng.

 

D. THỌ MẠNG TƯỚNG

-Này thiện nam! Thế nào là thọ mạng tướng? – Các chúng sanh tâm chiếu soi (phân biệt) đã thanh tịnh. Nhưng còn cái trí giác ngộ tưởng chúng sanh trước (giác sở liễu giả). Bởi còn có cái “trí giác ngộ”, tương tục tu tập các nghiệp vô lậu, chưa có thể tự trừ đưọc; cũng như mạng căn tương tục, không tự đoạn được, nên gọi là “thọ mạng tướng”.

-Này thiện nam! Nếu còn tâm soi thấy (biết) tất cả cái giác (biết) trước (3 tướng trên) đó thì cũng còn ở trong vòng trần cấu (tâm chưa trong sạch). Bởi còn năng giác và sở giác nên chưa rời trần cấu vậy.

Cũng như nước nóng làm tiêu băng, thì toàn băng là nước, lúc bấy giờ không còn nước nóng năng tiêu và băng bị tiêu nữa. Nếu còn chút nước nóng và băng, thế là nước chưa thuần nhứt. Cũng thế, nếu còn cái Ta để giác ngộ cái TA trước, thì chưa rời được bốn tướng.

 

LƯỢC GIẢI

Đại ý đoạn này nói: Người tu hành khi phá trừ được Ngã, Nhơn, chúng sanh ba tướng trên rồi, tâm đã được thanh tịnh, nhưng còn cái trí tiếp tục tu vô lậu nghiệp, để phá trừ tướng trên. Vì cái trí này còn tiếp tục trong một thời gian chưa có thể tự trừ được. Cũng như mạng sống của người, sống tiếp tục trong một thời gian, không thể tự đoạn được, nên gọi là “thọ mạng tướng”.

Phật dạy thêm, đại ý: Nếu còn tâm phân biệt để phá trừ các tướng ( Ngã, Nhơn, CHúng sanh, thọ mạng) thế là còn vọng vì năng, sợ, bỉ, Thử đối đãi nhau, nên tâm chưa trong sạch. Bởi còn vọng là còn nhiễm ô, vì thế nên gọi là trần cấu. NGhĩa là: nếu còn một chút biết rằng: “Ta trừ Ngã”, thế là còn mắc trong bốn tướng, chưa thoát ly được vọng – Cũng như nước nóng làm tiêu băng, khi băng “tiêu rồi thì “nóng” cũng không chỉ còn nước.

Ngài Tôn Mật giải: Nước là dụ cho “chơn tâm” băng là dụ cho “bốn tướng”. Nước nóng là dụ cho “trí huệ”. Nước vì lạnh mà đóng thành “băng”; cũng như Tâm vì mê nên thành “bốn tướng’. Dùng nước nóng làm tiêu băng, cũng như dùng trí huệ làm tiêu bốn tướng. KHi băng tiêu rồi thì nóng (nước nóng) cũng không chỉ còn một tánh nước mà thôi. Cũng như ngã tướng hết, thì trí phá Ngã cũng không chỉ còn một thể tánh chơn tâm.

Tóm lại, tướng “thọ mạng” cũng là tướng NGã rất vi tế đó thôi. Chúng sanh trước phân biệt chấp Ta, tức là Ngã tưóng. KHi phá được Ngã tướng, nhưng còn cái “trí biết mình phá Ngã” là nhơn tướng. Khi phá được Nhơn tướng, nhưng còn cái “trí biết mình đã phá nhơn tướng” gọi là chúng sanh tướng. Hi phá được chúng sanh tướng, nhưng vẫn còn cái “trí biết mình đã phá chúng sanh tướng”. Cái trí đó vẫn tiếp tục tu các nghiệp vô lậu, chưa có thể tự đoạn được, cũng như mạng căn tương tục sống trong một thời gian và không thể tự đoạn được, nên gọi là “thọ mạng tướng”.

VẬy thì bốn tướng trên, cũng là một ngã tướng, chẳng qua từ thô vào tế, từ thiển đến thâm mà thôi. Theo trong văn Kinh chữ Hán, dùng bốn chữ riêng biệt, chỉ rõ bốn tướng có thô và tế khác nhau.

1. Chứng là ngã tướng

2. NGộ là nhơn tướng

3. Liễu là chúng sanh tướng

4. Giác là thọ mạng tướng

 

******

6.Vì không rời được bốn tướng, nên tu chẳng thành Phật

-Này thiện nam! Các chúng sanh đời sau, bởi không rời được bốn tướng, nên tuy trải qua nhiều kiếp, siêng năng tu hành khổ hạnh, nhưng chỉ thành hữu vi mà thôi, chớ không thể chứng được Thánh quả.

 

LƯỢC GIẢI

Trong kinh LĂng nghiêm Phật đã cặn kẽ căn dặn: “Nếu các ông nhận lầm căn bản của sanh tửvọng tâm làm nhơn địa tu hành, thì không bao giờ thành quả vị Phật. Cũng như người nấu cát làm cơm, dầu trải qua bao nhiêu kiếp cũng chẳng thành cơm được, vì nó gốc là cát”

Giống với đoạn kinh này, Phật dạy đại ý: Người mang tâm nhơn, ngã v.v... thuộc về hữu vi hữu lậu của chúng sanh, mà muốn cầu quả vô vi vô lậu của Phật, dầu cho cực khổ tu hành, trải qua nhiều kiếp cũng không thể được, vì gốc nó là Ngã tướng, là chúng sanhhữu lậu vậy.

******

-Tại sao thế? Bởi nhân các ngã tướng: có chứng có ngộ, cho là thành tực quá Niết bàn. Chẳng khác nào người nhận giặc làm con, nó sẽ phá tan gia tài quý báu vậy.

 

LƯỢC GIẢI

Ngài Như Sơn giải rằng: TẠi sao siêng năng tu hành trải lâu nhiều kiếp, mà không chứng được thánh quả? - Bởi vì lầm nhận ngã tướng làm Niết bàn vậy. Cũng như lầm nhận giặc làm con, đã không được nhờ, trái lại còn bị nó phá hại chẳng ít.

Trên văn kinh, chữ “các ngã tướn” tức chỉ cho bốn tướng: Ngã, Nhơn, Chúng sanhThọ mạng.

Trên văn kinh, chữ “có chứng có ngộ”; nghĩa là biết mìnhchứng quả Phật, có ngộ Đạo, thế là chưa rời NGã tướng. Bởi hành giả đem “ngã tướng” này, cho là đặng thánh quả, nên nói “nhận giặc làm con vậy”.

 

******

7.Thương (tham) ghét (sân) là gốc của sanh tử luân hồi

-Này thiện nam! NẾu hành giả còn ưa (thương) Niết bàn (pháp ái) tức là còn NGã tướng (ta ưa); chẳng qua cái Ngã tướng ấy bị ẩn phục, rồi lầm cho đó là tướng niết bàn.

Còn ghét sanh tử, tức là còn Ngã tướng (ta ghét). chúng sanh riêng ghét sanh tử, ưa Niết bàn, chớ đâu biết rằng: cái “ưa” đó chính là gốc sanh tử, còn “ghét” là gốc triền phược (không giải thoát).

-Này thiện nam! Làm sao biết “ưa” và “ghét” là gốc của của sanh tử triền phược? Bởi các chúng sanh tu đạo Bồ đề, nếu còn đôi chút biết mình chứng được Đạo quả thanht ịnh, thế là chưa diệt trừ được tận gốc Ngã tướng, nên còn sanh tử triền phược.

 

LƯỢC GIẢI

Đại ý đoạn này nói: “còn” thương ghét là còn ngã tướng; mà ngã tướng là gốc rễ của sanh tử luân hồi.

Chúng sanh đem tâm “thương ghét” này mà cầu đạo Bồ đề, thì không bao giờ được giải thoát, vì nó là gốc của sanh tử luân hồi vậy.

Mặc dầu ghét sanh tửviệc phải, ưa cảnh Niết bàn tịch tịnh là một điều hay; nhưng cũng còn ở trong vòng thương ghét, nên chẳng rời Ngã tướng.

Phải không “thương ghét”, thì ngã tướng mới không; ngã tướng không, mớinhập được Viên giác. Vì hiểu nghĩa này, nên cổ nhơn có làm bài kệ rằng

HÁN VĂN:

 Thập phương đồng tụ hội

 CÁ cá học vô vi

 Thử thị tuyển Phật trường

 Tâm không cập đệ quy

DỊCH NGHĨA

 Mười phương đồng tu hội

 Người học vô vi

 Đây là trường thi Phật

 “Tâm không” mới được đậu

Bài kệ này quan trọng nhứt là hai chữ “Tâm không”. Người còn “ưa ghét” tức là còn tham sân; thâm sân còn thì sanh tử luân hồi còn. Bởi thế nên trường thì làm Phật này, nếu ai Tâm không còn tham sân tật đố, Tâm không còn nhơn ngã bỉ thử, Tâm không còn mừng giận thương ghét v.v... thì được “đậu”

 

********

8.Phật chỉ “Ngã tướng” ẩn núp trong tạng thức

-Này Thiện nam! Trong khi có người đến khen ngợi kính phục, hành giả lại sanh vui mừng, muốn tế độ người đó. Trái lại, nếu bị người chê bai hủy báng, thì hành giả lại sân hận. Do đó mà biết cái ngã tướng vẫn còn kiên cố núp ẩn trong tạng thức; nó thường lai vãng trogn các căn của hành giả, không gián đoạn vậy. Người tu hành bởi không đoạn trừ được “ngã tướng”, cho nên không thể nhập được Viên giác thanh tịnh.

 

LƯỢC GIẢI

Người đời khi gặp cảnh thuận hay nghịch, cái Ngả tướng thô trọng nổi lên rất dễ biết. Đến như người tu hành cổi lột được Ngã tướng thô trọng bên ngoài, nhưng còn cái Ngã tướng vi tế tiềm tàng trong tạng thức. Nó thường xuất đầu lộ diện, lai vãng ở nơi các căn: mắt, tai, mũi, lưỡi.

BẰng chứng: trong lúc được người khen kính thì ta sanh tâm hoan hỷ, muốn độ người ấy. Trái lại, khi bị người hủy báng chê bai, thì ta lại không vui. Đó là cái Ngã tướng hiển lộ, có phần tế nhị hơn trước. Bởi không trừ được tướng ngã, nên không nhập được Viên giác.

Thân ôi! Núi không cao, trời không cao

Ngã tướng mới cao

Sông chẳng sâu, biển chẳng sâu

Ngã tướng mới sâu

 

**********

9.Không thấy người hủy nhục, không thấy mình thuyết pháp độ sanh, lúc bấy giờ ngã tướng mới không còn.

-Này thiện nam! Nếu hành giả muốn biết mình được vô ngã chưa, cứ xem trong lúc bị người hủy nhục, mà không thấy có ngưòi hủy nhục như thế là được Vô ngã.

Trái lại, trong lúc thuyết pháp độ người mà còn thấy có Ta thuyết pháp, thế là Ngã tướng chưa đoạn. Còn nhơn tướng, chúng sanh tướngthọ mạng tướng cũng thế.

 

LƯỢC GIẢI

Được người khen không mừng bị người chê chẳn buồn, cũng chưa chắc đã hết Ngã tướng. Trong khi được khen bị chê, mà không thấy có người khen chê, như t hế mới là vô ngãTrái lại, nếu thấy có người khen chê, cố nhiên phải có Ta được khen, bị chê, nên Ngã tướng hãy còn rõ ràng.

Một thí dụ thứ hai: trong lúc thuyết pháp độ người, không thấy có Ta thuyết pháp, có người nghe pháp, không thấy có Ta tế độ, có người được độ; như thế mới được vô ngãTrái lại, nếu còn thấy có Ta thuyết pháp, có Ta tế độ, thế là Ngã tướng chưa đoạn.

Trong kinh Kim Cang, Phật nói:

“Bồ tát độ vô số chúng sanh mà không thấy chúng sanh có độ, nếu còn thấy có Ta độ sanh tức không phải Bồ tát”; vì còn ngã tướng, nên không phải bồ tát vậy.

Kinh Kim Cang lại nói:

“Bồ tát thuyết pháp, không thấy có mình thuyết, nếu còn thấy có Ta thuyết pháp, tức không phải Bồ tát”; vì còn ngã tướng, nên không phải bồ tát vậy.

 

******

10. Vì còn “ngã tướng” nên không nhập được viên giác

-Này Thiện nam! NGã tướng là cái trọng bịnh của hành giả. Song, chúng sanh đời sau, lại nhận làm cái trọng bịnh này, cho là mình chứng được pháp Niết bàn, thật đáng thương xót! Bởi thế nên chúng càng tinh tấn tu hành chừng nào thì lại càng thêm cái bịnh NGã tướng chừng nấy; vì thê nên không nhập được Viên giác thanh tịnh

-Này thiện nam! Chúng sanh đời sau chấp theo sự kiến giải và hạnh của Như Lai, làm chỗ hiểu biết và hạnh của mình, song vì không biết bốn tướng còn ẩn núp bên trong, nên chẳng thành tựu được Thánh quả

Hoặc có chúng sanh chưa đặng đạo mà nói mình đã đặng Đạo, chưa chứng quả mà nói mình đã chứng quả; thấy người tinh tấn tu h ành lại sanh tật đố. Bởi chúng sanh này chưa đoạn trừ được ngã ái nên không nhập được Viên giác thanh tịnh.

 

LƯỢC GIẢI

Đại ý dodạn này nói vì có ba nguyên nhân, nên Hành giả không nhập được viên giác thanh tịnh

1. Bởi hành giả không biết bốn tướng rất tế nhị, lầm cho mình chứng được đạo quả, nên càng tu chừng nào lại càng tăn gtrưởng bịnh Ngã tướng chừng nấy. Vì vậy mà chẳng nhập được viên giác.

2. Hành giả chỉ bắt chước theo chỗ kiến giải và hạnh của Như Lai làm của mình, không biết bốn tướng vẫn còn tiềm tàng trong tạng thức của hành giả, nên không được nhập Viên giác. Thí như hành giả thấy trong kinh Phật dạy bố thí v.v... rồi thực hành theo. Nhưng không biết trong khi ấy, lại bị bốn tướng thường theo dõi. Nhưng trong khi bố thí, thấy có người thọ thí (nhơn tướng) và ta bố thí (ngã tướng). Bố thí để cầu cho ta được giàu sang, Ta được mạnh giỏi v.v.. vì cái Ngã tướng còn nguyên hiện như thế, nên không nhập được Viên giác

3. Cũng vì Ngã tướng chưa đoạn nên hành giả trong lúc tu hành thấy kết quả được đôi phần, lúc bấy giờ tánh kiêu căng nổi lên, chưa phải chứng ngộ đắc đạo, mà tự cho mình đã chứng ngộ hoặc đắc đạo. Hay thấy người hơn mình, lại sanh ra tật đố v.v... Vì thế mà không thể nhập được Viên Giác.

 

*****

11. Phật dạy phương pháp nhập Viên giác

-Này Thiện nam! chúng sanh đời sau trông mong thành Đạo, mà không cầu cho ngộ đạo; chỉ ưa học nhiều nói suông, để tăng trưởng ngã tướng.

Hành giả phải phát tâm đại dõng mãnh, hàng phục các phiền não. Những pháp lành chưa chứng được phải tinh tấn tu cho chứng; các pháp ác chưa đoạn cho đưọc; khi xúc ảnh không sanh tham, sân, si, mạn, ái và tật đố v.v.. nào nhơn, ngã, bỉ, thử, ân ái v.v.. đều vắng lặng. Như Lai ấn chứng cho người này, lần lượt sẽ thành tựu được Viên giác.

Trên đường tu hành, hành giả phải cầu thiện hữu tri thức chỉ dẫn mới khỏi bị đọa tà kiến. Song, nếu hành giả đối với THiện tri thức, lại phân biệt sang hèn, sanh tâm thương ghét, thì cũng không thể nhập được biển Viên giác thanh tịnh.

 

LƯỢC GIẢI

Đại ý đoạn này, Phật chỉ đường lối tu hành để nhập Viên giác, có 3 đoạn

Đoạn thứ nhất, đại ý Phật dạy: Muốn được đạo thì phải tu hành mới ngộ được đạo. Nếu học nhiều nói suông mà không tu, thì chỉ tăng trưởng Ngã tướng.

Đoạn này giống như trong kinh Lăng Nghiêm, ngài A Nan tự trách: “.. Bạch Thế Tôn, vì con ỷ lai con là em của Phật, có lẽ Phật thương yêu sẽ ban cho con đạo quả, không cần phải tu hành cực khổ, chỉ lo học nhiều nói suông nên không lợi ích cho mình...”

Đoạn thứ hai, đại ý Phật dạy: Phương pháp tu hành để nhập Viên giác, là phải phát tâm đại dõng mãnh, đoạn trừ các phiền não, tức là bốn tướng nói trên. Siêng năng đoạn các ác pháp, tu chứng các thiện pháp. TẤt cả thời, tâm đều vắng lặng, khi đối cảnh không sanh các phiền não như tham, sân, si v.v.. Phật ấn chứng cho người ấy sẽ đặng nhập Viên giác.

Đoạn này giống như trong kinh Lăng Nghiêm Phật dạy bốn c hữ “Bất tùy phân biệt”, nghĩa là: khi đối cảnh không khởi phân biệt thì vọng niệm chẳng sanh, vọng niệm không sanh chơn tâm hiển lộ.

Đoạn thứ ba, đại ý Phật dạy: Trên đường tu hành, hành giả phải cầu Minh sư chỉ giáo, mới tránh khỏi đoạ tà kiến. Song khi đối v ới Minh sư không được phân biệt giàu nghèo, sang hèn v.v.. (y pháp bất y nhơn) phải sanh tâm kính trọng. Nếu trại lại thì không thể nhập được Viên giác.

 

***

12. Phật nói bài kệ tóm lại các nghĩa trên

Khi ấy đức Thế Tôn, muốn tóm lại nghĩa trên nên nói bài kệ rằng:

 Tịnh NGhiệp! Ông nên biết:

 TẤt cả các chúng sanh

 Luân hồi từ vô thỉ

 Đều do chấp ngã vậy.

 Nếu không trừ bốn tướng

 Chẳng chứng quả Bồ đề.

 Nếu tâm còn thương ghét

 hoặc tật đố si mê

 Ấy là kẻ mê muội,

 Không được nhập Viên giác.

Người muốn được giác ngộ,

 Trước phải trừ tham, sân,

 Tâm hết chấp ngã, pháp,

 Mới được nhập Viên giác

 Thân này còn chẳng có

 Thương ghét do đâu sanh

 Hành giả phải cầu Thầy

 Mới khỏi đọa tà kiến,

 Cầu thầy, mà phân biệt

 Thời không nhập Viên giác

 

LƯỢC GIẢI

Đại ý bài kệ này: Chúng sanh bị sanh tử luân hồi từ hồi nào đến giờ, đều do chấp bốn tướng. Nếu bốn tưóng không trừ thì không thể chứng bồ đề. Vì các phiền não như tham, sân, si v.v.. nó làm mê muội, nên chúng sanh chẳng nhập được Viên giác. Hành giả muốn nhập Viên giác trước phải đoạn tham, sân v.v.. Bao giờ tâm không còn ngã chấppháp chấp, mới chứng đặng Viên giác.

Song trên đường tu hành, hành giả phải cầu Minh sư chỉ giáo, mới khỏi lạc tà kiến. Khi cầu thỉnh Minh Sư, nếu hành giả còn phân biệt sang hèn, sanh tâm thương ghét, thời cũng không nhập được Viên giác.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11087)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 16462)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 11912)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 12102)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12795)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 12742)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10240)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 13975)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10242)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13711)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16274)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 11977)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 12988)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11663)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12686)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10803)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 11003)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 10950)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11904)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12773)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 11071)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12624)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11339)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
(Xem: 12528)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 14115)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10858)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10528)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11202)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 12008)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13166)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12356)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15352)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 14335)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12115)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15374)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12008)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12417)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11191)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12092)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10622)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12562)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13177)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14848)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12697)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16583)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19675)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 12273)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 13534)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11960)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11644)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12774)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14526)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12622)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15666)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13631)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12909)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 18021)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11172)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 12184)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13058)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant