Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Lời Nói Đầu- The Reverend Yamada Etai

25 Tháng Tám 201000:00(Xem: 12058)
Lời Nói Đầu- The Reverend Yamada Etai

NGHIÊN CỨUPHIÊN DỊCH ĐẠI PHẨM THỨ NHẤT
MA HA CHỈ QUÁN
PHÁP MÔN VIÊN ĐỐN

(The Great Calming and Contemplation)
THIÊN THAI TRÍ KHẢI

Neal Donner & Daniel B. Stevenson biên soạn - Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm dịch
Nhà xuất bản Phương Đông TP. HCM 2009

Phẩm Thứ Nhất
MA HA CHỈ QUÁN

Lời nói đầu

Phật giáo là một giáo pháp của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, là người sống ở miền Bắc Ấn Độ khoảng hơn hai ngàn năm trăm năm trước. Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ. Theo Phật Giáo, tất cả mọi người đều có thể trở thành Phật hoặc ‘bậc giác ngộ’ như Đức Thích Ca. Nỗi mong ngóng của tôi với những người đã hướng về con đường tu trì Phật pháp đều sẽ thành Phật. Khi thế giới nầy trở thành Phật giới hoặc Bồ tát giới, chúng sinh hướng về Phật quả, thì niềm hy vọng sẽ nở bừng an lạc.

Phật Giáo bao gồm Phật phápPhật đạo. Phật pháp diễn đạt tánh tướng giác ngộ của Phật. Chúng ta đã tự bao giờ đi trong sự chiếm ngự dềnh dàng của bản ngã thô thiển, và vì thế, mất dấu nhân duyên. Cũng vì vậy, chúng ta luôn ở trong trang thái xung đột với tha nhânthế giới chung quanh, phải chịu đựng những dòng đời khốn khổ vô ích. Pháp Phật đưa chúng ta về chỗ không có nỗi khổ, thấy được Bồ Đề an lạc bằng lối vượt thoát sự xâm chiếm của vô minh qua ngã, an trụ trong vô ngã. Đường Phật cung hiến những chỉ dẩn tu tập về thân và tâm để đến được với chân tánhtự do, vượt qua những phiền não cảm nhận từ một cái ngã như huyễn. Phát huy trí tuệtỉnh thức đối với chân tánh tức Phật pháp. Đến được với thực chứng trong ta và sống tùy thuận thực tại tức Phật đạo.

Maha Chỉ Quán (Moho Chih-kuan) đã được thuyết ra bởi vị sư Trung Hoa là Trí Khải (538-597), cũng là vị Tổ sư của tông Thiên Thai, và được một môn đồ là Kuan-ting (Quán Đảnh) (561-632) ghi lại. Đây là một bảng chỉ đường thâm sâu làm thế nào để viên dung hai mặt của Phật giáo - tức Phật phápPhật đạo. Trọng tâm của tập sách nầy quy về khái niệm ‘chỉ và quán, tịch và chiếu’ (chih-kuan ming ching) như một phương pháp hành trì (1). Khái niệm nầy đã được xưng tụng trong hầu hết những gì liên quan đến Phật giáo ở Trung Hoa. Tập sách được dịch sang Nhật ngữ khi Saicho hoặc Dengyo Daishi (Tối Trừng, 766-822), đã thành lập Thiên Thai Tông trên đỉnh Tỉ Duệ (Mount Hiei), và trở thành nền tảng của Phật giáo Nhật Bản.

Phật phápPhật đạo xiển dương giáo lýthực hành. Khi hai mặt nầy trọn vẹn đi vào nhau, tất cả khổ nãonghiệp chướng sẽ bị tận

diệt, và Phật trí bình đẳng với chư Phật sẽ hiển lộ. Tác phẩm MaHa Chỉ Quán đưa đường về với Phật tánh, và làm thế nào vạn pháp có trong một tâm, khả dĩ tuyệt đối tự do. MaHa Chỉ Quán nói đến thiền tọa như một phương tiện chính để tu tập chỉ và quán, tịch và chiếu. Trong tất cả những phương pháp thiền định hoặc trụ tâm vào thực tại, thì phương pháp tọa thiền dễ thực hành nhất. Vì lý do nầy, nói qua những phương pháp khác nhau trong việc tu tập thiền định được đề cập trong những bản kinh, thì MaHa Chỉ Quán cho thấy một điểm độc đáo là làm thế nào cuộc hành trình đi về chỗ chứng ngộ có thể đến được với một lần ngồi xuống trong thiền định. Sự hướng dẩn nầy là một phần quan trọng và nổi bật của tác phẩm.

Trí Khải tin rằng những giáo pháp được Thế Tôn thuyết ra, và đã được tồn trữ trong truyền thống Phật giáo chỉ là những phương tiện (upaya). Điều nầy nói lên rằng bởi vì thực tại Bồ Đề bất khả tư nghị khó được lãnh hội trực tiếp, Thế Tôn dùng những phương tiện khế hợp với căn tánh chúng sinh, và dần đưa họ về mục tiêu tối hậu. Thuyết giảng bộ kinh Pháp Hoa vào những ngày cuối đời, Đức Thích Ca Mâu Ni phối hợp tất cả những pháp phương tiện, phân tích, và tiết lộ mục đích sau cùng. Như vậy, kinh Pháp Hoa được thuyết ra như một giáo lý vi diệu đưa đường cho tất cả chúng sinh.

Với Trí Khải, chính bộ kinh Pháp Hoayếu chỉ của Phật pháp, là giáo pháp vô biên thành tựu tất cả những bản kinh khác, hứa hẹn một đất tâm tĩnh lặng và là nỗi hy vọng của tất cả con người trong tất cả mọi thời. Đặt căn bản trên lòng tin nầy, Trí Khải thuyết giảng MaHa Chỉ Quán, được trình bày như một phương pháp thực hành, gồm thu cái tinh túy của bộ kinh Pháp Hoa. Nói cách khác, MaHa Chỉ Quán là bảng chỉ đường đưa giáo lý tối thượng của kinh Pháp Hoa vào mặt thực hành- là sự hướng dẩn để nhận chân được tinh thần của bộ kinh.

Giáo lý tuyệt diệu của kinh Pháp Hoa đã được trình bày trong hai tác phẩm khác của Trí Khải là ‘Pháp Hoa Huyền Nghĩa’ diễn đạt sự thâm sâu của bộ kinh Pháp Hoa, và ‘Pháp Hoa Văn Cú’ là bảng chú giải từng câu trong toàn nội dung bản kinh. Ba tác phẩm nầy, được gọi là ‘Thiên Thai Tam Đại Bộ’- cùng chung chú giải yếu chỉ của Phật phápPhật đạo, giáo và hành, như được nói đến trong kinh Pháp Hoa, và như cái hiểu của Trí Khải về Phật pháp, và truyền thống Thiên Thai Tông.

MaHa Chỉ Quán gồm có mười chương, được bố cục qua năm đề mục chính : (1) phát đại tâm, (2) tu đại hạnh, (3) hiển đại quả, (4) xé lưới nghi (sự nghi hoặc về những phân chia của Phật pháp), và (5) quy đại xứ. Chương thứ nhất đến Chương thứ năm liên quan đến ý tưởng giác ngộ- cung hiến một sơ đồ về Chỉ và Quán, xác định văn tự Chỉ và Quán, thuyết giảng khái niệm về Chỉ và Quán, trình bày làm cách nào toàn thể phương pháp thực hành của Phật giáo được hoàn tất trong một phương pháp Chỉ và Quán, và như thế, cho hành giả một cái thấy rõ ràng về phương pháp Chỉ và Quán, và làm bừng dậy trong hành giả lòng mong muốn thực hành. Lý do là vì hành giả phải phát sinh ý tưởng giác ngộ một cách chính chắn thì mới có thể hành trì Phật pháp một cách hữu hiệu. Chương thứ sáu và thứ bảy của MaHa Chỉ Quán luận về chi tiết đặc thù qua khía cạnh thực hành. Chương thứ sáu nói về những chuẩn bị cụ thể và những thuận duyên cần thiết để thành tựu pháp môn Chỉ và Quán. Chương thứ bảy, là chương dài nhất, diễn tả chi tiết những kỷ thuật thích ứng về Chỉ và Quán. Tiếc thay, Trí Khải đã không kịp thuyết giảng ba chương và năm đề mục sau cùng trong toàn bộ mười chương như dự định.

Chỉ và Quán trình bày những phương pháp quy chế thích hợp nhất để đến được với sự toàn thiện của con người. Chỉ (chih) đưa tâm về với định và an trú trong tánh giác.
Quán (kuan) liên quan đến sự dùng tâm giác ngộ nầy như một nền tảng quán chiếu chân tánh đồng nhất trong vạn pháp. Đây là mặt thực hành, cùng lúc hội tụ ‘tịch’ của định đưa tâm vào chỗ vô ngã, và ‘chiếu’ của tuệ, thấy được vạn pháp phơi trải như nó là, hiển lộ giá trị chân thực. Khái niệm căn bản nầy đã từng được thuyết ra qua những bản kinh và luận thuở lâu xưa, nhưng sở dĩ MaHa Chỉ Quán được tán tụngtác phẩm nầy là một bảng chỉ đường thâm sâuchi tiết, có giá trị thực hành.

Có ba cách thức hành trì Chỉ và Quán : Tiệm, Bất Định, và Viên Đốn. Pháp môn Tiệm dành cho những hành giảcăn cơ thấp kém, là những người đi từ cạn đến sâu. Pháp môn Bất Định dành cho những hành giả thực tập nhiều đường lối khác nhau, tùy thuộc vào căn cơhoàn cảnh chung quanh. Pháp môn Viên Đốn là đỉnh cao, viết ra cho những người có căn tánh sắc bén. Qua lối tu tập nầy, hành giả phát huy được định hạnh bằng con đường vào thẳng chân tánh ngay từ điểm đầu tiên. Tất cả ba phương thức đều là Phật giáo Đại thừa, và đưa đến Bồ Đề, nhưng MaHa Chỉ Quán chỉ nói tổng quát hai phương thức kia, và đặc biệt nhấn mạnh vào pháp môn Viên Đốn. Vì vậy, tác phẩm có tựa đề là ‘Đại (MaHa) Chỉ Quán’. Trái tim của giáo pháp MaHa Chỉ Quán về mặt viên đốn được tìm thấy qua những lập luận về bốn trạng thái thiền định trong chương thứ nhất (phần dàn bài, theo sau là phần dịch), hai mươi lăm bước đầu trong chương thứ sáu (phần chuẩn bị khế hợp), và mười phương cách thực hành chỉ và quán trong chương thứ bảy (Chánh Quán). Tác phẩm MaHa Chỉ Quán được tán tụng như một phương thức thâm viễn, qua đó ba pháp môn đưa yếu tính hành trì Phật pháp vào hệ thống.

Tất cả mọi người đều có sẳn phẩm hạnh cao quý, bình đẳng. Nếu, qua cái hiểu chân thực nầy, con người có thể nhận ra rằng họ là những yếu tố không thể bị bứng gốc rễ từ một môi trường đơn thuần, và nếu những cá nhân tự giác nầy sáng tạo một cảnh giới của ngã và nhân có thể giúp đỡ lẩn nhau, thì ngay ở điểm đầu tiên, sự cân bằng giữa cá nhânxã hội sẽ xuất hiện, đưa đến hạnh phúc và hòa bình chân chính cho tất cả mọi người. Trong sự chuyển mình của những khám phá khoa học, tuy nhiên, con người về sau phô trương chiều hướng chú trọng kết quả. Khi sự xâm chiếm của kết quả nầy hóa thành khối duy vật chất khổng lồ, thì liền đó là cơ nguy có thể làm tan tành sự gắn bó giữa người với người. Điều quan trọng là phẩm hạnh của con người như một cá nhân đứng giữa tâm điểm của xã hội. Nếu chúng ta không có được một xã hội, trong đó, ngã và nhân cùng tương hữu một cách thỏa đáng, thì hòa bình và phước hạnh chân thực sẽ không bao giờ hiện ra được. Chúng ta phải nắm bắt được thực tại trên nền tảng tương giao, tùy thuận của nhân và duyên, và sáng tạo một xã hội vô ngã, là những cá nhân nghĩ và làm một cách tự nhiên hướng về người khác. Vì thế, đã đến lúc con người khắp mọi nơi trên thế giới cần hiểu được MaHa Chỉ Quán và thực sự hành trì để đến được chỗ tự làm cho chính mình trở nên toàn vẹn. Thực vậy, bản dịch chương thứ nhất qua Anh ngữ nầy có thể quay lại trở nên một bảng đưa đường về với phước hạnh hy hữu nhất của chúng ta dành cho con người. Có được sự cảm nhận sâu thẳm trong đường lối phiên dịch tác phẩm Hoa ngữ quan trọng nầy, với tất cả những ý nghĩa khôn cùng, tôi muốn gởi lời cảm tạ đến những người đã thực hiện.

The Reverend Yamada Etai

Bài tựa của Quán Đảnh (Kuan-ting) viết về MaHa Chỉ Quán bắt đầu với bốn chữ nầy. Tựa đề nầy đã trở thành yếu chỉ của tác phẩm và là phương pháp tu trì của Tông Thiên Thai.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10330)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12219)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15335)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16627)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12238)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11500)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14290)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 24630)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10713)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
(Xem: 12513)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10412)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12366)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11671)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 12069)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13025)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11470)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 17470)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 21428)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10703)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19276)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12443)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26068)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 14405)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 13743)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16869)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17609)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13151)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12552)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11636)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11639)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 20500)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 19016)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19621)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18692)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 15057)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15055)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 14010)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15542)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 14577)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 15871)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12900)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18447)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
(Xem: 15798)
Luận Văn Tổng Quát Về Đại Thừa do HT. Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 11098)
Nguyên tánh chân nhưlặng lẽsáng suốt không có gì gọi là chúng sanh (ngã), vũ trụ (pháp)...
(Xem: 53706)
Mông Sơn Thí Thực là một nghi thức đã được sử dụng rất phổ cập trong các ngôi Già lam thuộc hệ phái Phật giáo Bắc tông. Có ba loại nghi thức Mông Sơn: Đại Mông Sơn, Trung Mông Sơn và Tiểu Mông Sơn.
(Xem: 13015)
Bồ-tát Mã Minh tạo luận, Tam tạng pháp sư Chân Đế dịch Hán. HT Thích Trí Quang dịch giải Việt
(Xem: 16558)
Các phương thuốc của thế giới này, đa dạng và nhiều vô kể, thế nhưng chẳng có một phương thuốc nào có thể sánh với Đạo Pháp.
(Xem: 15431)
Tạng Luật được hình thành từ những điều luật được đặt ra để chỉnh đốn đạo đức tác phong của chúng đệ tử Đức Phật...
(Xem: 19981)
Tại Na-lan-Đà có một phái tu khổ hạnh, vị đứng đầu là Ni-kiền Thân-Tử, ông có cả nghìn đệ-tử, và có người tôn xưng ông là bậc Thánh...
(Xem: 15595)
Được HT Thích Tuệ Sỹ dịch theo bản Sanskrit, do Nhà xuất bản Phương Đông ấn hành năm Quý Mùi.
(Xem: 15377)
Tiếng Phạn “Sa Di”, ở đây dịch là Tức Từ, ý nói: Dứt ác, hành điều từ, dứt nhiễm ô thế giantừ bi cứu giúp chúng sanh. Còn dịch là Cần Sách, hoặc dịch là Cầu Tịch.
(Xem: 15178)
“Sau khi ta diệt độ, nên tôn trọng, kính quý Ba La Đề Mộc Xoa (Giới) như tối tăm gặp ánh sáng, như nghèo khó được của báu."
(Xem: 10413)
Với Phật giáo, toàn bộ nội dung tư tưởng Phật dạy là lấy con người làm gốc, gắn bó mật thiết với đời sống nhân quần xã hội...
(Xem: 20386)
Đức Phật dạy rằng, người nào sống không giới luật, tuy ở gần ta mà cũng như cách xa ta muôn dặm; người nào sống có giới luật, tuy ở xa ta muôn dặm mà cũng như ở cạnh bên ta.
(Xem: 15523)
Trẫm từng nói: Phật pháp chia ra Đại thừa, Tiểu thừa là việc thuộc về bên tiếp dẫn. Kỳ thật mỗi bước Tiểu thừa đều là Đại thừa, mỗi pháp Đại thừa chẳng lìa Tiểu thừa.
(Xem: 13070)
Tất cả nam nữthế gian giàu sang hay nghèo hèn, chịu khổ vô cùng hoặc hưởng phước vô lượng đều do nghiệp nhân gieo tạo đời trước mà cảm thọ quả báo hiện tại.
(Xem: 20185)
“Nhất thiết hữu vi pháp; Như mộng, huyễn, bào, ảnh; Như lộ diệc như điện; Ưng tác như thị quán.”
(Xem: 13313)
Thành thật luận (Satyasiddhi-sastra) do Ha-lê-bat-ma tạo luận, Cưu-ma-la-thập dịch Hán, Nguyên Hồng dịch Việt, thâu lục trong Đại chính, Đại Tạng Kinh số No 1647.
(Xem: 29044)
Chân Như Quan Của Phật Giáo (Ðặc biệt lấy Bát-Nhã làm trung tâm) Nguyên tác: Kimura Taiken; Việt Dịch: HT. Thích Quảng Độ
(Xem: 11738)
Nguyện cầu hồng ân Tam bảo gia hộ cho toàn thể quý học chúng Bồ tát giới tại gia, có đầy đủ bi trí lực để hoàn thành bản nguyện tự lợi, lợi tha, trong khung trời giải thoát tự tại của chánh pháp Như Lai.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant