Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần Năm : Điều Hoà

07 Tháng Mười 201000:00(Xem: 3967)
Phần Năm : Điều Hoà

PHẦN NĂM
ĐIỀU HÒA

A. LÚC BẮT ĐẦU HỌC TỌA THIỀN, TU HÀNH CHÁNH PHÁP CỦA MƯỜI PHƯƠNG CHƯ PHẬT:

Trước hết phải phát Bồ Đề nguyện, nguyện độ tất cả chúng sanh, nguyện thành vô thượng Phật đạo. Tâm phải vững vàng, tinh tấn dũng mãnh, không tiếc thân mạng, thề nếu không thành Phật đạo, quyết không thối chuyển.Sau đó, chính trong mỗi một niệm thường suy nghĩ thật tướng của các pháp, biết tất cả các pháp, nào là nội căn, ngoại trần, vọng thức hoặc các pháp phiền não, các pháp nhân quả đều do tâm mà có, chứ không phải thật có. Nếu tâm không phân biệt thì các pháp vốn không có tự tánh, nếu tâm không nhiễm trước thì thoát khỏi luân hồi sanh tử. Suy nghĩ như thế thật kỹ càng không còn chỗ nghi hoặc nữa, mới có thể theo thứ lớp mà tu tập Chỉ Quán.

Muốn tu tập được kết quả tốt, hành giả cần phải chuẩn bị, cũng như người thợ làm đồ gốm, muốn có những chén bát hay ấm bình tốt thì trước hết phải nhồi đất cho nhuyễn, sau đó mới bắt, nặn được các đồ dùng ấy tốt được. Và cũng như người gảy đàn, trước hết phải so dây cho đúng, khi gảy mới có được những âm ba vi diệu. Cũng thế, hành giả cần phải điều hòa năm việc sau đây mới tránh được những khó khăn, trở ngại về sau:

1)Điều hòa ăn uống:

Ăn uống cốt để nuôi thân cho khỏe mạnh, để có khả năng tu tập chánh pháp. Nếu ăn quá no thì tức bụng, hơi thở không đều, huyết mạch không thông, không thể ngồi lâu mà thực tập được. Nếu ăn quá ít thì thân thể suy nhược, ý niệm không vững, khó bề tọa thiền. Nếu ăn những thứ tanh nồng thì tâm trí hôn mê, nếu ăn những vật không thích hợp thì dễ sanh bệnh hoạn. Vì thế trong lúc tu định cần phải thận trọng điều hòa sự ăn uống.

2. Điều hòa sự thiếp ngủ:

Thiếp ngủ quá nhiều thì hoang phế sự tu hành, nó còn làm cho tâm trí hôn ám, thiện căn sút kém. Nếu ngủ quá ít thì trở ngại cho sức khỏe. Cần nên giác ngộ sự vô thường, điều hòa sự thiếp ngủ để cho ý niệm rõ ràng, tâm thức sáng suốt, chứng được Tam-muội. Sinh mạng vô thường, mỗi ngày càng đến gần chỗ chết, không nên vì nhân duyên thiếp ngủ mà luôn bỏ việc tu hành.

3. Điều hòa thân thể:

Điều hòa thân thể, điều hòa hơi thở, điều hòa tâm niệm cần phải làm chung một lần. Lẽ ra không nên nói riêng, nhưng đây nói riêng về điều hòa thân thể chỉ cốt để cho dễ hiểu mà thôi. Người tu thiền, trong lúc đi, đứng, nằm, ngồi đều cần phải điều hòa thân thể, cho thân thể được khoan khoái, thì hơi thở mới được nhẹ nhàng. Cần ngồi trên giường êm, như giường có mặt bằng dây đan, hoặc có nệm lót để khỏi bị tê. Nên ngồi bán già, nếu không kiết già được, nên mặc áo quần rộng rãi, và nới lỏng thắt lưng, nhưng lại cần đeo dây hoặc cài kim để hạ y khỏi tụt xuống. Sau đó để bàn tay trái lên trên bàn tay phải rồi kéo về gần thân, và đặt trên chân cho thật cân đối. Ngồi xuống như thế rồi uốn mình bảy tám lần, nhưng vẫn để tay chân nguyên như cũ, cốt làm cho các khớp xương giãn ra. Nếu trường hợp bị tê bại, thì nên ngồi ghế nệm mềm, hai chân thỏng xuống, hạ hai đầu gối sát nhau, và hai tay để trên hai bắp vế, rồi cũng uốn mình bảy tám lần như thế. Phép ngồi sau này không bằng phép trước, nhưng đối với những người tê bại thì lại có thể tác dụng ngồi được lâu hơn. Uốn mình xong thì ngồi thẳng thắn, xương sống không uốn cong và cũng không thẳng quá, đầu cổ ngay ngắn, không ngữa, mặt ngó thẳng ra trước.

Thứ nữa, nên thở ra những trược khí. Nghĩa là thở vào cho sâu, rồi mở miệng phóng hơi ra, phóng từ từ nhẹ nhàng, không nên thơ?i ra thành gió. Phóng trược khí như thế ba lần, và trong lúc ấy tưởng tất cả hơi uế trược trong thân và chỗ nào không thông suốt đều nhờ phóng trược khí đó mà được thông suốt. Xong rồi thì ngậm miệng, môi răng vừa dính với nhau, không bậm chặt, lưỡi thì dính lên vòm hàm trên, mắt nhắm vừa không thấy ánh sáng mà thôi. Nên ngồi nghiêm chỉnh như thế, thân, đầu và tứ chi tuyệt đối không lay động. Đó là phương pháp điều hòa thân thể, cốt yếu làm cho thân không buông lơi, không co rút. Lại cũng có thể tập Chỉ Quán trong lúc đi, lúc đứng, lúc nằm. Đi thì chậm rãi, khoan thai, để hơi thở được nhẹ nhàng. Đứng thì ngay thẳng, hai tay duỗi xuống, phía sau nên dựa vào tường hoặc dựa vào một cái gì khác để tránh lay động. Nằm thì theo phương thức cát tường của chư Phật, cốt yếu là phải tỉnh táo, không được thiếp ngủ.

4 Điều hòa hơi thở:

Hơi thở có bốn tướng: gió, suyển, khí, tức. Khi hơi thở trong mũi ra vào có tiếng, đó là tướng gió, khi hơi thở tuy không có tiếng, lúc ra vào còn bực tức không thông, đó là tướng suyển. Khi hơi thở tuy không có tiếng, không bực tức, nhưng ra vào không được nhẹ nhàng, đó là tướng khí. Khi hơi thở không có tiếng, không ngưng kết, không thô phù, ra vào nhẹ nhàng như không có, giúp cho ý niệm an lành vui vẻ, thì đó mới làtướng tức.

Hơi thở còn có tướng gió thì tâm tán loạn, hơi thở còn có tướng suyển thì tâm ngưng trệ, hơi thở còn có tướng khí thì tâm mệt nhọc, như thế chưa tu định được. Cần phải giữ hơi thở luôn luôn có tướng tức thì mới đắc định. Trong lúc tham thiền, nếu khởi sinh tướng gió, tướng suyển, tướng khí thì biết là hơi thở chưa điều hòa; do đó không nên quán tưởng, mà phải chú trọng điều hòa thân thể bằng ba phương pháp:

a)Hướng tâm ở dưới rốn.

b)Buông lơi thân thể một ít.

c)Quán hơi thở ra vào thông suốt cùng khắp thân thể, không có ngăn ngại, đến khi hơi thở không rít, không trơn, tức là không ngưng trệ, không thô phù, thì hơi thở được điều hòa và tâm dễ vào định.

5. Điều hòa tâm niệm:

Điều hòa tâm niệm có ba giai đoạn:

Trong lúc nhập định.

Trong lúc trụ định.

Trong lúc xuất định.

Trong lúc nhập định:

Điều hòa tâm niệm có hai phương pháp:

Điều phục những loạn tướng, không có buông lung.

Điều khiển tâm niệm yên lành, không chìm, không nổi, không lơi, không gấp.

Nếu trong lúc tọa thiền tâm trí mờ tối không ghi nhớ rõ, đầu muốn cúi xuống, đó là tướng chìm, lúc bấy giờ nên chuyên tâm an trụ nơi đỉnh mũi, khiến tâm chú ý trong duyên, không bị phân tán, thì trị được tướng chìm. Nếu trong lúc tọa thiền tâm hay lay động, thân cũng không yên, nghĩ đến việc khác ở ngoại cảnh, đó là tướng nổi, lúc bấy giờ nên an tâm hướng xuống dưới, để tâm an trụ nơi rốn, chế phục các loạn niệm, như thế trị được tiếng nổi và làm cho tâm được bình tĩnh, dễ yên lặng. Nếu trong lúc tọa thiền tâm niệm tản mác, thân muốn nghiêng ngả, hoặc trong miệng ra nước bọt, hoặc tâm niệm tối tăm, thì đó là tướng lơi, lúc bấy giờ cần chỉnh đốn thân thể, quán tưởng gấp nhặt thêm để tâm an trụ torng duyên, thân thể bình tĩnh, đó là cách trị tướng lơi. Nếu trong lúc tọa thiền, đương nhiếp tâm quán tưởng, nhân đó tâm hướng lên trên quá trong ngực đau nhói, đó là tướng gấp, lúc bấy giờ nên buông lơi tâm tưởng một ít, tâm nghĩ trở xuống và hết đau ngực, đó là cách trị tướng gấp.

Tâm niệm còn có thể có một số tướng khác, nhưng cốt yếu trong lúc nhập định là phải điều hòa tâm niệm, không chìm xuống, không nổi lên, không gấp rút, không buông lơi, cho đến không rít qua, không trơn quá thì tâm niệm sẽ được điều hòa. Và trong lúc nhập định, phải từ thô phù, đến tế nhị.

Thân là thô phù, Tâm là tế nhị, Tức là ở chặng giữa. Phải điều hòa từ thô phù đến tế nhị, khiến cho tâm được yên lặng, đó là phương tiện ban đầu trong lúc nhập định.

Trong lúc trụ định:

Cần điều hòa ba việc: Thân, Tức và Tâm.

Người thực hành trong một thời tọa thiền dài đến cả ngày, ngắn chỉ một giờ, đương lúc nhiếp niệm quán tưởng, cần phải khéo biết những tướng điều hòa hoặc không điều hòa của Thân, Tức và Tâm. Nếu trước kia tuy đã điều hòa thân thể xong, nhưng thân hoặc lơi, hoặc gấp, hoặc xiên, hoặc cong, hoặc cúi hoặc ngửa, không được đoan chính, thì khi biết nên sửa lại cho đúng đắn. Trong lúc tọa thiền tuy thân được điều hòa, nhưng hơi thở lại không điều hòa, như có tướng gió, tướng suyển, tướng khí. thì nên dùng phương pháp trước kia để điều hòa hơi thở luôn luôn giữ được tướng tức, nhẹ nhàng, lâng lâng, như có như không. Trong lúc tọa thiền thân thểhơi thở tuy đã được điều hòa, mà tâm niệm thì lại có những tướng chìm, nổi, lơi, gấp, khi phát hiện được phải theo những phép ở trên kia mà điều hòa cho thích hợp.

Nói tóm lại, trong một thời tọa thiền, Thân, Tức và Tâm luôn luôn phải được điều hòa, xem xét đúng đắn và điều hòa thích đáng thì tọa thiền mới được an lành, trừ được trở ngại và dễ dàng nhập định.

Trong lúc xuất định:

Cũng phải điều hòa Thân, Tức và Tâm.

Người thực hành tọa thiền xorg, muốn xuất định thì trước hết buông tâm ra, duyên với việc khác, đoạn mở miệng phóng hơi ra và quán tưởng hơi thở từ trong toàn thân theo ý mình mà tản đi. Sau đó, lay động thân nhẹ nhàng, rồi động đến vai, cánh tay, đầu cổ, tiếp đến hai chân, khiến toàn thân mềm mại. Thứ nữa, lấy tay xoa khắp các lỗ chân lông, rồi xoa tay cho ấm, háp vào hai mắt, sau đó mở mắt ra.

Người thực hành đợi lúc thân thể bớt nóng, mới tùy ý ra vào thiền định. Nếu không làm như vậy, khi ngồi, tâm có thể được an trụ, đến khi xuất định mà quá gấp rút thì có thể làm cho nhức đầu, đau xương, đau mình, như mắc bệnh phong. Do đó sau này tọa thiền không được yên ổn. Vì thế, cần phải điều hòa thân thể; hơi thởtâm niệm trong lúc xuất định, phải xuất dần dần, từ tế nhị đến thô phù mà không quá gấp rút.

B. CÁC PHÁP MÔN PHƯƠNG TIỆN:

Phàm thực hành Chỉ Quán, cần phải có đầy đủ Năm pháp môn phương tiện sau đây:

1. muốn:

Phật dạy: "Tất cả thiện pháp lấy ý muốn làm cội nguồn". Người tu hành phải muốn xa rời tất cả vọng tưởng, điên đảo thế gian, muốn được tất cả thiền định, trí tuệ, đó cũng gọi là chí, cũng gọi là nguyện, cũng gọi là ưa, cũng gọi là thích, người có chí nguyện ưa thích tất cả những pháp môn tu hành nên gọi là muốn.

2.Tinh tiến:

Tinh tiến là siêng năng tu hành, giữ vững cấm giới, trừ bỏ ngũ cái, đầu hôm và gần sáng chuyên tu không rời, cũng như người dùi lửa, (người xưa lấy lửa bằng cách dùng hai vật cọ xát vào nhau, sự ma sát tạo sức nóng cao độ thì có lửa), chưa nóng thì quyết định không dừng nghĩ.

3. Niệm:

Niệm là nghĩ đến thế gian giả dối không đáng kể, nghĩ đến thiền định rất đáng quý trọng. Nếu được thiền định thì đầy đủ tất cả, phát sanh vô lậu trí, có thần thông đạo lực, thành bậc vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, độ khắp chúng sinh nên rât đáng quý.

4. Trí tuệ thiện xảo:

Người tu hành trí tuê? thiện xảoso sánh cái vui thế gian với cái vui thiền định trí tuệ, hai bên được gì, mất gì, bên nào khinh, bên nào trọng. So sánh như thế, người tu hành sẽ thấy cái vui thế gian là vui ít khổ nhiều, giả dối, không thật, dầu có mất đi cũng chẳng mất mát bao nhiêu. Còn cái vui thiền định trí tuệvô lậu, vô vi, vắng lặng, rộng lớn, xa rời sinh tử, dứt hẳn khổ não. Được cái vui như thế thì trọng đại biết dường nào, do đó càng vững tâm tu thiền định.

5. Nhất tâm:

Đã biết niềm vui thế gian có nhiều tác hại, có nhiều khổ não, đã biết công đức thiền định trí tuệ rất đáng tôn quý, thì nên nhất tâm quyết định thực hành Chỉ Quán. Tâm ấy như kim cương, dẫu cho thiên ma ngoại đạo ngăn cản phá hoại, dẫu cho đường tu chưa đạt được gì cũng quyết khơngthay đổi. Hành giả cần phải đầy đủ những phương tiệïn như thế thì tâm mới quyết định, cũng như người đi đường cần biết đường đi khó hay dễ thế nào thì mới quyết tâm đi tới.Vì thế, trong Kinh đức Phật có dạy: "Không có Trí thì không có Thiền, không có Thiền thì không có Trí".

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10333)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12222)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15337)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16629)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12243)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11505)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14291)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 24637)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10716)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
(Xem: 12515)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10415)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12368)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11672)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 12071)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13026)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11474)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 17474)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 21431)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10705)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19278)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12444)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26073)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 14410)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 13743)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16871)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17614)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13155)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12553)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11639)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11644)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 20503)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 19026)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19628)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18698)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 15060)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15056)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 14013)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15544)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 14577)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 15873)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12901)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18448)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
(Xem: 15800)
Luận Văn Tổng Quát Về Đại Thừa do HT. Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 11101)
Nguyên tánh chân nhưlặng lẽsáng suốt không có gì gọi là chúng sanh (ngã), vũ trụ (pháp)...
(Xem: 53706)
Mông Sơn Thí Thực là một nghi thức đã được sử dụng rất phổ cập trong các ngôi Già lam thuộc hệ phái Phật giáo Bắc tông. Có ba loại nghi thức Mông Sơn: Đại Mông Sơn, Trung Mông Sơn và Tiểu Mông Sơn.
(Xem: 13020)
Bồ-tát Mã Minh tạo luận, Tam tạng pháp sư Chân Đế dịch Hán. HT Thích Trí Quang dịch giải Việt
(Xem: 16560)
Các phương thuốc của thế giới này, đa dạng và nhiều vô kể, thế nhưng chẳng có một phương thuốc nào có thể sánh với Đạo Pháp.
(Xem: 15432)
Tạng Luật được hình thành từ những điều luật được đặt ra để chỉnh đốn đạo đức tác phong của chúng đệ tử Đức Phật...
(Xem: 19987)
Tại Na-lan-Đà có một phái tu khổ hạnh, vị đứng đầu là Ni-kiền Thân-Tử, ông có cả nghìn đệ-tử, và có người tôn xưng ông là bậc Thánh...
(Xem: 15597)
Được HT Thích Tuệ Sỹ dịch theo bản Sanskrit, do Nhà xuất bản Phương Đông ấn hành năm Quý Mùi.
(Xem: 15380)
Tiếng Phạn “Sa Di”, ở đây dịch là Tức Từ, ý nói: Dứt ác, hành điều từ, dứt nhiễm ô thế giantừ bi cứu giúp chúng sanh. Còn dịch là Cần Sách, hoặc dịch là Cầu Tịch.
(Xem: 15180)
“Sau khi ta diệt độ, nên tôn trọng, kính quý Ba La Đề Mộc Xoa (Giới) như tối tăm gặp ánh sáng, như nghèo khó được của báu."
(Xem: 10414)
Với Phật giáo, toàn bộ nội dung tư tưởng Phật dạy là lấy con người làm gốc, gắn bó mật thiết với đời sống nhân quần xã hội...
(Xem: 20392)
Đức Phật dạy rằng, người nào sống không giới luật, tuy ở gần ta mà cũng như cách xa ta muôn dặm; người nào sống có giới luật, tuy ở xa ta muôn dặm mà cũng như ở cạnh bên ta.
(Xem: 15523)
Trẫm từng nói: Phật pháp chia ra Đại thừa, Tiểu thừa là việc thuộc về bên tiếp dẫn. Kỳ thật mỗi bước Tiểu thừa đều là Đại thừa, mỗi pháp Đại thừa chẳng lìa Tiểu thừa.
(Xem: 13071)
Tất cả nam nữthế gian giàu sang hay nghèo hèn, chịu khổ vô cùng hoặc hưởng phước vô lượng đều do nghiệp nhân gieo tạo đời trước mà cảm thọ quả báo hiện tại.
(Xem: 20192)
“Nhất thiết hữu vi pháp; Như mộng, huyễn, bào, ảnh; Như lộ diệc như điện; Ưng tác như thị quán.”
(Xem: 13318)
Thành thật luận (Satyasiddhi-sastra) do Ha-lê-bat-ma tạo luận, Cưu-ma-la-thập dịch Hán, Nguyên Hồng dịch Việt, thâu lục trong Đại chính, Đại Tạng Kinh số No 1647.
(Xem: 29045)
Chân Như Quan Của Phật Giáo (Ðặc biệt lấy Bát-Nhã làm trung tâm) Nguyên tác: Kimura Taiken; Việt Dịch: HT. Thích Quảng Độ
(Xem: 11740)
Nguyện cầu hồng ân Tam bảo gia hộ cho toàn thể quý học chúng Bồ tát giới tại gia, có đầy đủ bi trí lực để hoàn thành bản nguyện tự lợi, lợi tha, trong khung trời giải thoát tự tại của chánh pháp Như Lai.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant