Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tứ Diệu Đế Từ Góc Độ Phương Pháp Luận Khoa Học

15 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 20703)
Tứ Diệu Đế Từ Góc Độ Phương Pháp Luận Khoa Học

TỨ DIỆU ĐẾ

TỪ GÓC ĐỘ PHƯƠNG PHÁP LUẬN KHOA HỌC
PGS. TS. Hà Vĩnh Tân

Khi còn nhỏ, những câu chuyện cổ tích mà bà và mẹ kể về Bụt đã để lại trong lòng tôi hình ảnh một ông cụ râu tóc bạc phơ đầy từ bi, luôn hiện ra đúng lúc, đúng chỗ, dùng phép lạ cứu giúp muôn chúng sinh qua mọi cảnh khổ nạn:

Dáng Bụt điềm đạm, thanh cao,
Lời Bụt ấm áp, thấm vào tâm ta
Lòng Bụt rộng mở bao la,
Mắt Bụt thấu hiểu, chan hòa tình thương

Lớn lên, trở thành một Phật tử, tôi mới hiểu ra rằng Bụt không dùng phép lạ để cứu giúp chúng ta, mà Bụt chỉ trao truyền cho chúng ta những phương pháp để tự mình tu tâm, dưỡng tính, hoàn thiện nhân cách và hơn nữa cho chúng ta một nghệ thuật sống và làm việc để mang lại niềm hạnh phúc đích thực cho chính mình và mọi người, theo tinh thần “tự độ độ tha, tự giác giác tha”.

Tâm thông hết thảy đều không,
Tâm mê có mắt mà không thấy đàng,
Phật trao ta Ánh đạo vàng,
Tự mình khám phá thiên đàng Tự Tâm

Trong bài ngắn này tôi xin thử lý giải giáo lý Tứ diệu đế từ góc độ khoa học, chia sẻ tâm nguyện của mình với những ai quan tâm đến việc hiện đại hóa Đạo Phật, và kết hợp Phật Pháp với khoa học kỹ thuật trong việc truyền bááp dụng vào cuộc sống.

Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại. Xem lại đoạn Phật thuyết giảng về Tứ diệu đế trong kinh Chuyển pháp luân – bản dịch của Hòa thượng Thích Minh Châu, ta cảm nhận sâu sắc rằng, Tứ diệu đế chính là một trong những tuệ giác sáng chói nhất của Phật. Ngài đã tìm ra sự thật đen tối nhất của cõi đời là bệnh, già, chết và sự phiền não thường trực trong lòng mỗi người, ngài gọi là Khổ (Khổ đế). Sự thật thứ hai ngài tìm ranguyên nhân đau khổ, ngài gọi là Khổ tập (Tập đế). Sự thật thứ ba ngài tìm rapháp môn tu tập để dứt trừ nguyên nhân đau khổ, ngài gọi là Khổ tập diệt (Diệt đế). Và sự thật thứ tư ngài tìm racon đường cho mọi người đi tới hạnh phúc, an vui vĩnh cửu, ngài gọi là Khổ tập diệt đạo (Đạo đế).

Thiền sư Minh Đăng Quang trong bộ sách “Chân Lý” có luận giảng một cách hình ảnh về vai trò then chốt của giáo lý Tứ diệu đế như sau:

“Pháp chánh giác có ra là do tứ diệu đế. Pháp là chính giác, là pháp của trong tứ diệu đế, do tứ diệu đế sinh ra. Chánh giác là Pháp, là tiếng trống, tứ diệu đế là dùi trống, mặt đất cõi đời là mặt trống, Bởi có mặt trống, Phật mới chỉ ra dùi trống, dùi chạm mặt, mới sinh ra tiếng trống, tiếng ấy là pháp chánh giác. Còn chúng sanh là người nghe.

Bởi chúng sanh sầu khổ, nên Phật mới nói rằng: Này là khổ, vấn đề, đề mục khổ. Này nguyên nhân sanh ra khổ, là tập, vấn đề, đề mục tập. Này phép diệt khổ, là diệt, vấn đề, đề mục diệt. Này là Đạo diệt luân hồi khổ, vấn đề, đề mục đạo. Đạo là con đường đi sau khi diệt luân hồi khổ. Diệt là diệt bỏ 12 nhân duyên tập của luân hồi. Tập là sanh tử luân hồi, để chứa khổ, khổ là bởi tập luân hồi, vì không diệt đạo”.

Phương pháp mầu nhiệm diệt khổ đau trong Giáo lý Tứ diệu đế của Phật tổ Thích Ca Mâu Ni đã được trao chuyền qua bao trái tim khối óc bao người, vượt bao sự thăng trầm biến động của lịch sử, ngày nay may mắn lại đến tận tay và đi vào tâm trí thế hệ chúng ta. Được sống và tu nương vào ánh sáng của Tứ diệu đế, ta xin chân thành cảm ơn Người:

“Tâm viên, ý mã” khổ làm sao,
Sai khiến ta đi khắp nẻo nào,
Ơn Phật phát minh Pháp mầu nhiệm,
Phục tâm kiềm ý tuyệt biết bao"

Là người nghiên cứu khoa học lại có duyên nghiên cứu Phật Pháp, tôi nhận thấy trong giáo lý của Phật cũng hàm chứa một cách vi diệu, những phương pháp luận có nhiều điểm tương đồng với phương pháp luận khoa học.

Chúng ta biết rằng, khoa học là một động lực quan trọng trong quá trình nhận thứctiến hóa của nền văn minh nhân loại. Rất nhiều nhà khoa học đã có những phát minh quan trọng, cũng như chịu sự hy sinh to lớn vì bảo vệ chân lý nha Nicôlai Côpecnich hay Galileo Galilei. Tôi muốn nhắc tới trong số các nhà khoa học cận đại như: Thomas Edison, nhà phát minh công nghệ vĩ đại với 1.093 bằng sáng chế riêng tại Hoa Kỳ, Albert Einsntein – nhà vật lý học vĩ đại đặt nền móng cho vật lý hiện đại với năng lượng hạt nhân và khoa học kỹ thuật không gian, hay Von Neumann – nhà toán học lỗi lạc, mà riêng sự phát minh ra máy tính điện tử của ông đã đem đến cho chúng ta một loạt các thiết bị khoa học kỹ thuật cốt lõi của kỷ nguyên văn minh thông tin.

Nhân loại đã chế tạo ra các công cụ lao động và sáng tạo ra cả các phương pháp tư duy cùng các thiết bị nghiên cứu khoa học. Các phương pháp hay các lập luận khoa học là một quá trình, thường được trình bày như các bước nối tiếp nhau theo một trình tự logic. Có một nhận xét đáng chú ý là: đa số các quá trình lập luận này mang tính tuần hoàn, còn gọi là “chu trình lôgic”. Có nghĩa là, cứ sau một số bước nhất định, các bước lại được lặp lại. Ở đây tôi xin gọi là các phương pháp luận có bốn bước trong một chu trình là “Tứ đoạn luận pháp”.

Các Tứ đoạn luận pháp trong thực tế gồm bốn bước lặp đi lặp lại theo chu trình, nhưng sau mỗi một vòng quay lại được điều chỉnh thành tốt hơn, hoàn thiện hơn, cuối cùng là đi đến kết quả mong muốn. Để làm sáng tỏ khái niệm Tứ đoạn luận pháp trong thực tiễn, chúng ta hãy hình dung Tứ đoạn luận pháp này như hình ảnh các bực thang trên một chiếc cầu thang xoay trôn ốc trong nhà, mà cứ bước thứ tư sau đó lại nằm ngay trên bước ấy theo chiều thẳng đứng (bước thứ 5 nằm ngay trên bước thứ 1).

Đến đây chắc độc giả có thể đặt câu hỏi: Tứ diệu đế có phải là một Tứ đoạn luận pháp không? Nếu hiểu Tứ diệu đế như một sự thực tập, cũng như các phương pháp khoa học là dùng để áp dụng vào cuộc sống thực tiễn, thì Tứ diệu đế phải được coi như một Tứ đoạn luận pháp.

Phật chỉ ra một sự thật là trong cuộc đời này, chúng sinh gặp bao nhiêu phiền não, sầu khổ về hoàn cảnh, về thể xác và tâm hồn. Phật trao cho chúng ta Tứ diệu đế như một sự thực tập, một phương pháp tu tập nhằm giúp con người tự mình giải phóng khỏi mọi phiền não khổ đau, đi đến niềm hạnh phúc an lạc, đích thực. Có một vị thiền sư đã nói rằng:”Tứ diệu đế không phải là một lý thuyết, tứ diệu đế là một công trình thực tập. Tứ diệu đế không chỉ là nguyên tắc của sự thực tập, tứ diệu đếbản thân của sự thực tập” giúp ta giải thoát khỏi u minh - nguồn gốc của mọi phiền não khổ đau, đi đến mục tiêugiác ngộ chân chínhxây dựng Tịnh độ trong tâm mỗi con người và trên cả thế gian này.

Ta có một nhận xét thú vị là, những phương pháp luận mang tính tứ đoạn luận trong thực tiễn khoa học thuộc loại rất phổ biến và thường là phương pháp tổng quát (general method) trong việc giải quyết vấn đề (problem solving), thu nhận kiến thức (obtaining knowledge), và phát minh bí quyết công nghệ (obtaining know-how).

Đây chính là các phương pháp luận quan trọng nhất trong thực tiễn:

1. PHƯƠNG PHÁP KHOA HỌC (Scientific method) dùng trong nghiên cứu và phát minh khoa học nói chung, à ở đây ta gọi là tứ đoạn luận “Khoa học”.

Bây giờ ta xem xét cụ thể các bước trong tứ đoạn luận “Khoa học” là:

  • Bước 1- Mô tả đặc tính (Charaterization from experience and observation): Mô tả đặc tính của hiện tượng vấn đế.
  • Bước 2- Lập giả thiết (Hypothesis: a proposed explanation): Đặt giả thiết, căn cứ để giải thích.
  • Bước 3- Suy luận lôgic (Deduction: prediction from the hypothesis): Các suy luận, tiên đoán từ giả thiết.
  • Bước 4- Kiểm chứng (Test and experiment): Các phép thử và thí nghiệm kiểm chứng
  • Bước 5- (lặp lại bước 1 ở mức độ cao hơn) Lại mô tả đặc tính mới: Mô tả đặc tính của hiện tượng một cách đúng hơn chi tiết hơn.

2. PHƯƠNG PHÁP TOÁN HỌC (Mathematical method) dùng riêng trong nghiên cứusáng tạo toán học, mà ở đây ta gọi là tứ đoạn luận “Toán học”.

Các bước trong tứ đoạn luận “Toán học”.

  • Bước 1- Sự hiểu (Understanding): Đây là sự hiểu tương đối xuất phát về đối tượng.
  • Bước 2- Phân tích (Analysis): Sự mổ xẻ đi sâu vào chi tiết sự hiểu của mình so với thực tại.
  • Bước 3- Tổng hợp (Synthesis): Tập hợp hay tích hợp lại những sự phân tích và nhận xét lẫn phát hiện mới của ta thu được trong sự mổ xẻ cái đã hiểu lại.
  • Bước 4- Tổng quan và mở rộng (Review/ Extend): Liên hệ với những điều ta hoặc người ta đã biết khác mở rộng cái hiểu bao quát hơn.
  • Bước 5- (lặp lại bước 1 ở mức độ cao hơn): Lại làm mới thêm sự hiểu: Ta thu được cái hiểu mới về đối tượng nghiên cứu.

3. PHƯƠNG PHÁP THỬ VÀ SAI MỞ RỘNG (Generalized trial and error method) dùng phổ biến trong nghiên cứu và phát minh các bí quyết công nghệ (know-how), mà ở đây ta gọi tắt là tứ đoạn luận “Thử và sai”.

Các bước trong tứ đoạn luận “Thử và sai” là:

  • Bước 1- Thử (Trial) Mô tả phép thử làm một việc nào đó với một ý tưởng xuất phát, thử dùng một phương pháp, một công cụ phương tiện mà mình cho là hợp lý, thử lên một kế hoạch nhằm đạt một mục đíhc mong muốn nào đó…
  • Bước 2- Sai (Error): Sau khi thử thực hiện những điều đã dự định, kết quả thu được lại không như ý, hoặc không đúng như ta dự báo, mong muốn…
  • Bước 3- Phân tích (Analysis): Phân tích tìm hiểu ngọn ngành nguyên nhân cái sai nằm ở đâu.
  • Bước 4- Sửa sai (Correction): Có nghĩa, tìm ra cách khác mà ta cho là tốt hơn và không chứa những điều sai mà ta đã nhận ra ở bước “hiểu cái sai”.
  • Bước 5- (lặp lại bước 1 ở mức độ cao hơn) Lại thử thêm lần nữa: Tiếp tục thử một lần nữa ới sự khắc phục hay loại trừ cái sai.

Cả ba phương pháp tứ đoạn luận nói trên đều chung một đặc tính là gồm bốn bước lặp lại theo chu trình đi lên. Nếu phân tích chung sâu hơn, ta sẽ nhận thấy các tứ đoạn luận này về ý nghĩa hay logic có bản chất tương tự nhau, và chỉ chia làm 3 phương pháp khác nhau về hình thức để áp dụng cụ thể cho phù hợp với 3 đối tượng khác nhau mà thôi.

Nhìn lại cuộc sống, ta có thể dễ dàng nhận ra một sự thật là: Khi ta không làm việc gì thì nói chung là không sao, còn nếu a cứ làm một việc gì đó thì xme kỹ lại vẫn tìm ra được những điều sai sót (không lớn thì nhỏ). Như vậy, “sai và thiếu” là những điều mà khó ai có thể tránh khỏi, nên chúng không đáng làm ta lo sợ. Điều đáng sợ hơn chính là khi ta không nhận ra các sai lầm đó để quyết tâm sửa chữa. Đây chính là bản chất của Phương pháp “Thử và Sai”.

Điều này tương tự như Bản chất của phương pháp “Tứ diệu đế” mà Phật đã giác ngộ và chỉ ra cho chúng ta: mọi sự đau khổ của cuộc đời không phải là Định mệnh, mà chúng ta đành cam chấp nhận. Ngược lại, chính bằng sự tu tập theo phương pháp “Tứ diệu đế” ta có thể giải thoát mọi khổ đau của cuộc đời.

Để làm nổi bật cách vận hành của Tứ diệu đế trong sự tu tập, ta hãy so sánh sự tương đồng của Tứ đoạn luận “Tứ diệu đế” với Tứ đoạn luận “Thử và sai” qua bảng sau:

Các bước Thử và Sai Tứ Diệu Đế
1 Sai lầm Khổ đế - những sự khổ
2 Hiểu nguyên nhân sai lầm Khổ Tập đế - hiểu nguyên nhân của khổ
3 Sửa nguyên nhân sai lầm Khổ Tập Diệt đế - Tìm phương pháp diệt khổ
4 Thử sau khi Sửa nguyên nhân sai lầm Đạo Khổ Tập Diệt đế - Con dường diệt khổ

5

...

Lại vẫn còn Sai lầm khác

Quay lại Khổ đế ở mức khác

Ta thử phân tích và so sánh kỹ hơn bảng trên:

Bước 1: Khổ đế nha một Sự thật nhưng lại không phải “Sự thật tất yếu, không sửa chữa được”, mà đó chỉ là một sự thật xảy ra trong tâm ta do hoàn cảnh tác động, gây đau khổ cho ta cũng chỉ giống như một Sai lầm của nhân thức mà ta hoàn toàn có thể sửa chữa được.

Bước 2: Sự thật này có nguyên nhân của nó (Khổ Tập đế), mà khi ta hiểu ra như hiểu “nguyên nhân của Sai lầm”.
Bước 3: Khi hiểu nguyên nhân rồi ta sẽ loại trừ được nó (Khổ Tập Diệt đế) như việc sửa chữa nguyên nhân Sai lầm.

Bước 4: Bước cuối cùng trong chu trình này là ta lại tiếp tục sống và làm việc, hoạt động theo cách đúng đắn với những nguyên nhân của Sai lầm đã được nhận ra một phần và đã được sửa chữa một phần (Đạo Khổ Tập Diệt đế). Đến đây chu trình lại quay lại từ đầu nhưng ở mức hoàn thiện hơn sau quá trình tu tập:

Bước 5- Đúng như những gì xảy ra trong thực tiễn, Sai lầm là có, tuy nhiên chưa thể dễ dàng nhận ra được hết nó, và cũng chưa thể sửa chữa hết ngay những sai lầm đã hiểu nguyên nhân, nên trong quá trình sửa chữa ta lại vẫn còn có Sai lầm khác… cứ thế bước 5 này chính là quay lại bước 1 ở mức hoàn thiện cao hơn mà thôi.

Phân tích đến đây, tôi nhớ lại đoạn văn tả lại giây phút Phật thành đạo trong cuốn “Đường xưa mấy trắng” (tác giả Thích Nhất Hạnh): vào một buổi sáng bình minh, sau 49 ngày đêm ngồi thiền dưới gốc cây Bồ đề cổ thụ, Siddhatta (tên của Phật lúc đó) bừng mở mắt và chợt thấy “sao Mai hiện ra như một ngôi sao mới, chói sáng và lấp lánh mừng vui như nụ cười giác ngộ. Ông sững nhìn ngôi sao Mai rồi buột miệng lên tiếng: “Lạ thay, tất cả mọi chúng sanh đều có sẵn hạt giống của trí tuệ giác ngộ trong lòng. Vậy mà trong ngàn muôn ức kiếp cứ để cho tự mình lặn ngụp trong biển sinh tử khổ đau thật đáng thương”. Siddhatta biết rằng đạo lớn đã được tìm ra, và hoài bão lớn của ông đã đạt được với một tâm hồn an lạc thư thái…”

Ngay ở chỗ này mà tôi chợt nhận ra một điều, Phật cũng chính là một nhà khoa học, một nhà khoa học tâm linh vĩ đại. Bằng công trình thực nghiệm thiền quán 49 ngày đêm (trên chính bản thân mình), Phật là người đầu tiên nhận ra một chân lý, như một phát minh vĩ đại trong lịch sử nhân loạt thuộc lĩnh vực khoa học nhân văn: “Tất cả mọi người đều có sẵn hạt giống của trí tuệ giác ngộ trong lòng”.

Phật gọi hạt giống của trí tuệ giác ngộGiác tính, còn ngày nay chúng ta thường còn gọi là “Phật tính”. Và các phương pháp mà Phật dạy truyền cho chúng ta nhằm tự tu tập để tiến tới giác ngộgiải thoát là “Phập pháp”. Điều này giống như trong khoa học, người ta gọi bảng tuần hoàn của các nguyên tố là bản tuần hoàn Meldeleev theo tên nhà hóa học lỗi lạc Dmitri Ivannovich Mendeleev đã phát minh ra nó hay như Lý thuyết tương đối Einstein theo tên nhà vật lý vĩ đại Albert Einstein đã viết ra nó…

Nhận ra Giác tính trong tâm mình và cùng lúc trong mọi chúng sinh, ngài không dừng ở việc nhận biết cái khổ của nhân loại (Khổ đế), ngài đẩy xa hơn ánh sáng trí tuệ của mìn tới việc tìm ra nguyên nhân đau khổ. Vâng, đây là một logic tất yếu sau khi ta coi Khổ đế là một sai lầm của nhận thức. Vì thấy sự đau khổ đó là do Sai lầm nên Ngài quan sát sâu sắc cái sai lầm dưới cá nhìn thiền quán và đã bước sang Thấu hiểu sai lầm, mà ngài gọi là Tập đế (Khổ tập đế).

Tìm được nguyên nhân của đau khổ rồi ngài lại tìm ra phương pháp, pháp môn tu tập để dứt trừ nguyên nhân đau khổ. Nếu Khổ tập đế là hiểu cái sai lầm, thì theo sự so sánh như trên ta thấy ngài bước tiếp một bước nữa sang sửa cái sai lầm, mà ngài gọi là Diệu đế (Khổ tập diệt đế).

Diệt xong khổ, ngài còn tìm và chỉ ra con đường cho mọi người đi tới cảnh giới hạnh phúc, an vui vĩnh cửu, ngài gọi là Đạo đế (Khổ tập diệt đạo đế). Đây chính là bước cuôci cùng thử sau khi sửa sai lầm.

Vấn đề khi ta áp dụng tứ đoạn luận pháp chính là tính lặp lại theo chu kỳ đi lên. Tức là sau khi Thử sau khi sửa sai lầm ta thường không đạt được cái đúng ngay. Tương tự, ở đây trong quá trình tu tập Đạo đế ta chưa thể đạt được sự an lạc thảnh thơi hoàn toàn, có nghĩa là ta vẫn còn ít nhiều cái khổ. Nói cách khác ta vẫn còn cái sai lầm. Nhưng cái sai lầm này (ở bước 5) đã khác hơn cái sai lầm trước đó (ở bước 1) ở chỗ sai ít hơn hoặc sai dễ sửa hơn, và ta hãy yên tâm là mình đang tiến dần đến mục tiêu hơn qua mỗi chu trình thực tập.

Việc so sánh Tứ diệu đế với Phương pháp luận khoa học như trên còn giúp tôi nhận thức ra một sự thật quan trọng nữa: Khoa học và Đạo học chân thực là hai con đường nhận thức cơ bản của loài người, quyện hòa với nhau, bổ sung cho nhau nhằm đưa nhan loại vượt thoát hết mọi phiền não và khổ đau của sinh tử luân hồi đạt tới mục tiêu cao quý là sự giác ngộ Chân lý, và sống An lạc, Hạnh phúc ngay tại cuộc đời này.


Đơn thuốc của Đạo Phật trong thời kinh tế thị trường, Chủ nghĩa Tư bản

Các bước Nguyên tắc hướng dẫn Tứ Diệu Đế
1 Cuộc đờiđau khổ:
- Chủ nghĩa tiêu thụ thái quá
- Ảo tưởng, hoang đường về thịnh vượng, hạnh phúc, trường tồn
- Thiếu giá trị dẫn dắt, trừ lòng tham
- Sự hung hăng, gây hấn, lòng tham, thù hận và vô mình
Khổ đế - những sự khổ
Gồm tất cả những cảm giác, kinh nghiệm không vừa ý về vật chất (đau ốm, thất nghiệp, cháy nhà, phá sản) và về tinh thần (ảo tưởng, chán nản, lo lắng, thương tiếc). Chúng lúc phát sinh, lúc biến đi – vô minh.
2 Nguyên nhân cuộc đời đau khổHam muốnVướng mắc:
- Lòng tham: không vao giờ biết đủ, thiếu vắng niềm tin làm cho đau khổ
- Cạnh tranh không giới hạn
- Mọi cái không sinh lời đều đáng vứt bỏ
- Giả định không lành mạnh: chấp nhận lòng tham, hận thùthỏa mãn cá nhân; không chấp nhận luật nhân quả
Khổ Tập đế - hiểu nguyên nhân của khổ
Tam độcnguyên nhân của đau khổ cho ta và cho người khác:
1. Tham (lòng tham, ham muốn, quyến luyến).
2. Sân (giận dữ, ghét bỏ)
3. Si (vô minh, mê mờ, ngu dốt)
3 Sửa nguyên nhân sai lầm
- Các mối quan hệ công bằng phụ thuộc, tin cậy lẫn nhau
- Sự hợp tác không ích kỷ
- Các hành động dựa trên ý nghĩý định tích cực
- Hạnh phúc là sự ưu tiên
Khổ Tập Diệt đế - Tìm phương pháp diệt khổ
Giải thoát khỏi đau khổ - vô minh bằng cách nhận rằng tích lũy vật chất, của cải chẳng có ích lợi gì cho cuộc sống tinh thần của ta. Việc bám víu vào đau khổgiải thoát ta khỏi vòng luân hồi của ham muốn là kết quả của ý nghĩa và hành đọng của chúng ta.
4 Thoát khỏi đau khổ: Sau khi Sửa nguyên nhân sai lầm
- Tuân đúng luật Nhân quả (nhận thức được mọi hành động đều có hậu quả của nó)
- Trí tuệ: hành động theo giá trị chung, xây dựng với vô thường
- Giảm những bấu víu, tích cực đóng vào sự cân bằng và hòa hợp chung; phù hợp với tầm nhìn xã hội
- Phát triển tâm linh, tinh thần
- Lợi nhuậnhạnh phúcbình đẳng với nhau
- Làm việc có trách nhiệm với sản phẩm và dịch vụ
- Tạo nên xã hội tốt đẹp hơn là trách nhiệm xã hội
Đạo Khổ Tập Diệt đế - Con đường diệt khổ.
Bát Chánh đạocon đường thoát đau khổham muốn.
1. Chánh kiến: có hiểu biết chân chính
2. Chánh tư duy: tư duy lành mạnh, khước từ tham vọng, ý định thiện chí và không gây hại
3. Chánh ngữ: ngôn ngữ luôn bắt nguồn từ tâm (trung thực, không làm tổn hại, không xúc phạm, không lăng mạ, tránh chuyện tầm phào)
4. Chánh nghiệp: hành động dựa trên chánh tư duy, đạt kết quả không gây hại.
5. Chánh mạng: kiếm sống đúng luật, có đạo đức và phẩm hạnh
6. Chánh tinh tấn: từ tốn, chậm rãi, tránh những trạng thái tiêu cực cho tâm
7. Chánh niệm: hiểu rõ cách sử dụng tâm để rèn tâm sắc bén như một kỹ năng sống
8. Chánh định: sử dụng tâm để có những lựa chọnquyết định khôn ngoan
5 Lại vẫn còn Sai lầm khác

Quay lại Khổ đế ở mức khác

PGS. TS. Hà Vĩnh Tân, Viện Vật lý, Viện Khoa học Công nghệ Việt Nam
(Nguồn: Tạp chí Phật Học)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11165)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 16535)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 12019)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 12195)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12872)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 12836)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10338)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 14069)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10291)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13788)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16361)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 12071)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 13059)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11735)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12755)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10901)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 11075)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 11025)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11967)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12882)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 11168)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12694)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11434)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
(Xem: 12616)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 14185)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10933)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10605)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11293)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 12089)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13241)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12443)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15447)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 14416)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12196)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15473)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12089)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12489)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11276)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12163)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10698)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12617)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13263)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14953)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12784)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16667)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19761)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 12366)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 13620)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 12030)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11714)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12839)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14623)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12706)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15766)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13708)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 13000)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 18107)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11255)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 12280)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13133)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant