Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Sinh Tử qua Lăng Kính của Người Giác Ngộ

29 Tháng Sáu 201513:11(Xem: 8531)
Sinh Tử qua Lăng Kính của Người Giác Ngộ
Sinh Tử qua Lăng Kính của Người Giác Ngộ

Thánh Tri



Sinh Tử qua Lăng Kính của Người Giác NgộHai chữ “Sinh Tử” đã khiến cho biết bao nhiêu người bất kể trí ngu giàu nghèo từ xưa đến nay đều phải lưu ý tới và khổ tâm vì nó. Người trí thì đối diện với nó và tìm cách để giải quyết nó để thoát khỏi nó một cách vĩnh viễn. Kẻ ngu thì sợ hải nó, trốn tránh nó và làm mọi cách để quên nó trong hiện tại một cách tạm thời. Người giàu không thể dùng tiền để mua lấy cái chiêu bài “miễn tử” mà người nghèo cũng không thể thoát khỏi sự chết. Bởi sanh già bệnh chết là bốn cái khổ chính chung của loài người và muôn loài chúng sanh. Vậy sinh tử là cái gì mà khiến cho bao nhiêu người phải để tâm đến? Phần đông con người quan niệm rằng sinh là sự hiện hữu của một cái thân hình tướng và tử là sự mất của cái thân hình tướng chính nó. Cũng có người cho rằng sinh tử là sự khởi niệm và diệt niệm nơi tâm trong từng sát-na. Tuy rằng thân và tâm đều sinh diệt theo định luật của vô thường vô ngã trong phạm vi tương đối, nhưng cái sinh diệt ấy là hư vọng của những người sống trong chiêm bao qua cái thấy của người giác ngộ đã vượt ngoài tương đối hay ở trong Bản Thể Tuyệt Đối. Nói một cách khác, đối với người Giác Ngộ thì thật khôngsinh tử.

Qua con mắt nghiệp bệnh của loài người thì sinh già bệnh chết diễn ra trên thân tứ đại hằng năm, hằng ngày và hằng giờ. Nhưng đối với người có khả năng quán sát kỹ càng và tỉ mỉ hơn như là những người hiểu đạo và đang tu đạo thì sinh tử đang diễn ra hằng phút, hằng giây và thậm chí hằng từng hơi thở. Trong Kinh Tứ Thập Nhị Chương, Phẩm 38 có chép như sau:

“Đức Phật hỏi một vị Sa môn: "Sinh mạng của con người tồn tại bao lâu?". Đáp rằng: "Trong vài ngày". Phật nói: "Ông chưa hiểu Đạo". Đức Phật lại hỏi một vị Sa môn khác "Sinh mạng con người tồn tại bao lâu?". Đáp: "Khoảng một bữa ăn". Phật nói: "Ông chưa hiểu Đạo". Đức Phật lại hỏi một vị Sa môn khác nữa: "Sinh mạng con người tồn tại bao lâu?". Đáp: "Khoảng một hơi thở". Phật khen: "Hay lắm! Ông là người hiểu Đạo."(1)

Đối với đức Phật thì người hiểu đạo là người có sự quán sát tỉ mỉ về thân vô thường chỉ tồn tại trong từng hơi thở, tức rất mong manh, vì một hơi thở ra không vào là đã qua đời khác. Quán cái thân vô thường trong mỗi hơi thở là để phá kiến chấp về thân vì thấy rõ bản chất của nó là duyên sinh vô ngã. Có quán như thế mới thấy được rằng không phải khi nhắm mắt xuôi tay mới gọi là chết, mà sự thật là cái chết đã thể hiện qua trong từng hơi thở.    

Nói sinh tử trong từng hơi thở là cách quán sát kỹ lưỡng về thân vô thường ngô ngã. Nhưng nếu quán sát tỉ mỉ hơn thì cũng có thể thấy rõ rằng sinh tử hiện hữu ở trong từng tâm niệm, từng sát-na. Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm quyển hai, Vua Ba Tư Nặc có trình bày một cách chi tiết về sự sinh diệt của không những là thân mà còn là tâm trong từng niệm và sát-na như sau:

“Bạch Thế Tôn! Sự biến hóa âm thầm dời đổi, con thật chẳng hay, mùa đông mùa hạ thấm thoát trôi qua, dần dần đến thế này. Tại sao? Khi hai mươi tuổi, dù gọi là trẻ, nhưng mặt mày đã già hơn lúc lên mười, khi ba mươi tuổi lại sút hơn lúc hai mươi, đến nay đã sáu mươi hai, so với lúc năm mươi thì suy yếu hơn nhiều. Thế Tôn, con cảm thấy sự dời đổi âm thầm trôi chảy theo kỳ hạn mười năm, nhưng nếu suy xét tỉ mỉ thì cái biến đổi ấy đâu phải từng 10 năm! Thật ra thì mỗi năm mỗi đổi, cho đến mỗi tháng, mỗi ngày, mỗi giờ, trong mỗi sát na niệm niệm biến đổi chẳng ngừng, nên biết thân này chung quy biến diệt vậy.”(2)

Trong Quy Sơn Cảnh Sách, Tổ Quy Sơn cũng dạy:

 “Chuyện vô thường già chết không hề hẹn trước. Sớm còn tối mất, thoắt chốc đã sang đời khác; như sương như móc thoạt có thoạt không; như cây ven bờ vực, như dây leo vách giếng, có chi bền chắc? Niệm niệm nhanh chóng nối nhau, chỉ trong chớp mắt, trút hơi thở đã qua kiếp khác. Sao lại có thể yên lòng mà bỏ phí cuộc đời trôi qua vô ích?”(3)

Niệm niệm biến đổi không ngừng trong từng sát-na là chỉ cho cái tâm khởi diệt hết niệm nầy đến niệm khác một cách nhanh chóng để thể hiện sinh tử qua từng tâm niệm. Quán cái tâm sinh diệt trong từng niệm để phá vỡ cái nhận thức sai lầm về vọng tâm hay thức được biến hiện qua những làng sóng võ não khi trần cảnh tiếp xúc với phù trần căntịnh sắc căn, mà ai cũng cho nó là mình, của mình và tự ngã của mình. Thân đã vô thường duyên sinh vô ngã thì vọng tâm cũng như thế.

Nếu là người không hiểu đạo và tu đạo thì thật sự không thấy rõ được sự vô thường sanh diệt của thân tâm trong từng hơi thở và trong mỗi niệm sát-na sinh diệt như trên đã trình bày. Chính bởi vì những người ấy không biết nên không chánh niệm tỉnh giác trong từng hơi thở. Ngược lại họ cứ để tâm buông lung vong ruỗi chạy theo trần cảnh bên ngoài qua ngày tháng mà không hay, đến khi già già bệnh chết tới thì mới chợt tỉnh rằng thân mạngvô thường giả tạm và cuộc đời là một tuồng hát, vở kịch, và giấc mộng nhanh chóng trôi qua. Người hiểu đạo và tu đạo thì không thể lãng phí cả một đời người sống trong mê lầm điên đảo đắm chấp thân mạng vô thường nầy được, mà phải như lời Phật dạy thực hành việc quán sát sự sinh diệt biến đổi không ngừng của thân và tâm trong từng hơi thở và mỗi niệm để chúng ta có thể buông xuống những kiến chấp sai lầm về chúng (như cho chúng là mình, là của mình và là tự ngã của mình) mà từ từ xa dần sinh tử. Còn chấp lấy thân tâm thì bị chúng chi phối ràng buộc, sai sử tạo nghiệp và chính vì thế mà theo nghiệp thọ nhiều báo thân ở trong tam giới lục đạo không thể nào ra khỏi được.

Thân và Tâm nầy nó vốn là duyên sinh vô ngã, vô thường giả tạm, và biến đổi không ngừng thì nó thật chẳng phải là mình, là của mình và là tự ngã của mình được. Thế nên trong Kinh Bát Đại Nhân Giác, đức Phật đã dạy người tu phải quán sát về thân tâm sinh diệt vô thường để phá ngã chấp như sau:

 “Giác ngộ thứ nhất: Thế gian vô thường, quốc độ mong manh, tứ đại khổ không, năm ấm vô ngã, sinh diệt đổi dời, hư ngụy không chủ, tâm là nguồn ác, thân là mọi tội, quán sát như vậy, xa dần sinh tử.
Giác tri
thứ nhì: Đa dục là khổ, sinh tử nhọc nhằn, do tham dục khởi, thiểu dục vô vi, thân tâm tự tại…
Giác
ngộ thứ năm: Sinh tử ngu si, Bồ Tát thường niệm, quảng học đa văn, tăng trưởng trí huệ, thành tựu biện tài, giáo hóa hết thảy, khiến được vui lớn.”(4)

Như vậy đức Phật dạy người tu phải quán sát mọi sự vật hiện tượng trên đời nầy từ vật lý đến tâm lý đều là duyên sinh vô ngã, cho nên vô thường chuyển biến từ dạng nầy sang dạng khác một cách mau chóng không ngừng. Hơn thế nữa, đức Phật dạy người tu phải biết rằng sở dĩsinh tử về thân và tâm là bởi vì do lòng tham dục sinh khởi bất tận. Chính vì lòng tham sinh khởi không ngừng nên chân tâm bị che mờ hay còn gọi là vô minh (ngu si). Lòng tham chỉ là danh từ chung của những vọng thức thuộc về tâm tham nói riêng và tất cả vọng tâm phan duyên nói chung được phát hiện qua làng sóng võ não hay biến kế sở chấp thuộc tình thức hư vọng. Chính vì có vô minh nên mới có những suy nghĩ, lời nói, và hành động tạo tác sai lầm để tạo thành những hạt giống gieo vào tàng thức (A-Lại-Da Thức) để làm nghiệp nhân có những nghiệp quả của đời nầy và đời sau. Và cũng chính vì thế nên mới có sanh già bệnh chết. Nói chung, vô minh do vọng tâm là gốc của lưu chuyển sinh tử. Vì vậy Kinh Pháp Cú, Phẩm Song Yếu nói:

“Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác. Nếu nói hoặc làm với tâm ô nhiễm, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo. Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác. Nếu nói  hoặc làm với tâm thanh tịnh, sự vui sẽ theo nghiệp kéo đến như bóng theo hình.” (5)

         
Do vậy tiến lên nữa, đức Phật dạy người phải quán Thập Nhị Nhân Duyên như sau: “vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên sanh sắc, danh sắc duyên lục nhập, lục nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sanh, sanh duyên lão tử.” Mười hai nhân duyên nầy lấy Thân và Tâm của chính con người làm trọng điểm để quán sát, bởi thân và tâm (vọng tâm) là cái gốc khổ đau sinh tử như trong Kinh Bát Đại Nhân Giác ở trên có nói “Tâm là nguồn ác, thân là mọi tội”. Do vậy Phật giáo không dạy những gì phù phiếm, huyền bí, và huyễn hoặc không mạng lại lợi ích thiết thực cho con người. Đức Phật dùng trí huệ thấy rõ sự vận hành của dòng tâm thức vô minh dẫn đến sanh già bệnh chết một cách rõ rệt nên mới dạy chúng ta nhắm vào gốc hay căn nguyên của mọi đau khổ mà nhổ cho tận gốc, chứ không đi vòng quanh. Chính do vô minh hiện hữu mà sanh già bệnh chết hiện hữu. Nếu có thể quét sạch vọng thức vô minh ấy thì sanh già bệnh chết cũng được quét sạch không còn, hay nói cách khác hết vô minh thì hết sinh tử. Khi vô minhsinh tử đã hết thì mới gọi là “thân tâm tự tại” “khiến được vui lớn” theo Kinh Bát Đại Nhân Giác.

Bởi vì con người sống trong vòng tương đối của sanh tử, có không, hơn thua, yêu ghét, chánh tà, hư ngụy v.v… nên đức Phật mới dùng những pháp tương đối để trị những bệnh chấp tương đối ấy. Con người có quá nhiều tâm chấp trước nên đức Phật mới dùng nhiều phương pháp để hóa giải những tâm lầm chấp đó. Chứ kỳ thật nếu con người không có những tâm bám chấp đó thì Phật cũng không khổ nhọc để bày nhiều phương pháp đối trị để làm gì. Giống như nếu không có bệnh thì đâu cần phải uống thuốc! Như trong Truyền Tâm Pháp Yếu, Tổ Hoàng Bá có dạy: “Phật thuyết tất cả pháp vì độ tất cả tâm, ta chẳng tất cả tâm đâu cần tất cả pháp.”(6) Chính vì thế mà ở trong cả hai Kinh Thủ Lăng Nghiêm và Kinh Viên Giác đức Phật cùng nói một lời “Tất cả kinh giáo như là ngón tay chỉ trăng” (nhứt thiết tu đa la giáo như tiêu nguyệt chỉ) và như Kinh Kim Cang ngài lại nói “Các Tỳ Kheo phải biết lời thuyết pháp của ta ví như chiếc bè qua sông, đến bờ thì phải bỏ bè; vậy pháp còn phải bỏ, huống là phi pháp!”(7)

Sinh Tử kỳ thật cũng thuộc bệnh lầm chấp nơi tâm mê muội trong tương đối của con người theo tư tưởng Đại Thừa. Vì thế muốn tiến vào cửa Bát Nhã Đại Thừa hay bản thể Tuyệt Đối thì phải vượt ngoài những gì thuộc tương đối. Nói một cách khác, ở trong bản thể tuyệt đối thì không có sinh tử bởi sinh tử thuộc tương đối. Vì thế Kinh Tâm Bát Nhã nói:

 “Bởi vậy trong KHÔNG: không sắc, không thọ không tưởng, hành, thức. Không mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Không sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Không có tầm nhìn hạn cuộc của chính nhãn thức. Cho đến không có phân biệt hạn cuộc của chính ý thức. Không có vô minh, cũng không có sự chấm dứt vô minh. Cho đến không có già chết, cũng không hết già chết. Không khổ, tập, diệt, đạo. Không trí cũng không đắc.”(8)

Ngài Long Thọ cũng phá chấp về sinh tử ở trong Trung Quán Luận, Phẩm 11 như sau:

“Sở thuyết của đại Thánh. Bản tế bất khả đắc. Sanh tử chẳng bắt đầu. Cũng chẳng có cuối cùng. Nếu chẳng có thỉ chung. Chính giữa làm sao có. Cho nên ở trong đó. Trước sau chung cũng không (cộng chung cũng chẳng có). Giả sử sanh có trước, sau mới có già chết, không già chết có sanh. sanh không có già chết. Nếu già chết có trước, sau mới có kẻ sanh, ấy tức là vô nhân, không sanh có già chết.”(9)

Đây là phá chấp về sinh tử, vì trên thực tế xưa nay sanh tử chẳng có chỗ bắt đầu và vì thế cũng chẳng có cuối cùng. Nếu cho rằng sanh có trước và già chết có sau thì chẳng do già chết mà lại có sanh, tức là sanh và chết mỗi mỗi tự độc lập thì đó là điều vô lý. Vì rằng sanh ra mà không già chết, hoặc già chết mà không có sanh. Lại như già chết có trước rồi mới có sanh thì sanh đó không có nhân tức là không có sanh mà lại có già chết.  

Kinh Lăng Nghiêm, Quyển Hai cũng viết:

“A Nan! Ngươi còn chưa rõ tất cả tướng huyễn hóa nơi tiền trần, tùy nơi nhân duyên sanh ra, theo nơi nhân duyên diệt mất, thể tánh của tướng huyễn hóa hư vọng này vốn là diệu giác sáng tỏ, như vậy cho đến ngũ ấm, lục nhập, thập nhị xứ, thập bát giới, vì nhân duyên hòa hợp, hư vọng cho là có sanh, nhân duyên tan rã, hư vọng cho là có diệt, mà chẳng biết sanh diệt khứ lai vốn là Như Lai Tạng, cũng gọi là diệu minh thường trụ, bất động chu viên (cùng khắp không gian), diệu tánh chơn như, nơi tánh chơn thường tìm sự khứ lai, mê ngộ, sanh diệt đều bất khả đắc.”(10)

Bởi Tánh Không hoặc Tánh Chơn Thường là bản thể Tuyệt Đối nên bản tánh ấy không có những cập phạm trù tương đối như sinh tử, đến đi, mê ngộsinh diệt. Vì vậy sinh và tử là bất nhị, sinh tửniết bàn cũng lại là bất nhị. Bởi bản thể Tuyệt Đốibất nhị nên tất cả những gì mà mắt phàm nhận thấy biết như sinh tử, đến đi, mê ngộ lúc trước cũng chuyển thành tuyệt đối bất nhị sau khi đã giác ngộ trở về với Tâm Tánh Chơn Thường hay bản thể Tuyệt Đối ấy. Do vậy qua lăng kính của người giác ngộ thì sinh tử vốn không, là việc của người trong mộng vì bản thể chưa từng sinh nên cũng chưa từng diệt. Như mắt bệnh nên thấy hoa đốm sinh ra từ hư không, nhưng kỳ thật nếu mắt không có bệnh thì hư không tuyệt chẳng có hoa đốm. Sinh tử ví như hoa đốm do bệnh mắt, do chiêm bao mà thấy là có và cho là thật. Hư không dụ cho bản thể Tuyệt Đối hay chân tâm thường trụ chẳng có những cập phàm trù thuộc tương đối nào cả như sinh tử, đến đi và mê ngộ.
Qua mắt nghiệp bệnh của con người thì thật có sinh tử. Nhưng qua Ngũ Nhãn (Nhục, Thiên, Pháp, Huệ, Phật) của Như Lai hay người Giác Ngộ thì sinh tử là việc trong mộng, là bản thể Tuyệt Đối bất nhị và là KHÔNG (Tánh Không trong Kinh Bát Nhã, không phải có không của phàm phu). Do vậy trong Kinh Viên Giác, Phẩm Hai chép như sau:

“Thiện nam tử! Bồ Tát này và chúng sanh đời mạt pháp tu tập tâm này đều được thành tựu. Vì bản giác vốn đầy đủ, dù nói tu tập thành tựu, thật vốn vô tu, cũng vô thành tựu. Vì Viên Giác phổ biến chiếu soi, tịch diệt bất nhị, trong đó bao gồm trăm ngàn muôn ức a tăng kỳ bất khả thuyết vô số hằng sa thế giới của chư Phật, ví như hoa đốm hiện trên hư không, khởi diệt lăng xăng, chẳng hợp chẳng lìa, chẳng trói buộc, chẳng giải thoát, vì thế mới biết chúng sanh bổn lai thành Phật, sanh tử Niết Bàn đều như việc trong mộng. Thiện nam tử! Do các pháp như việc trong mộng, nên biết sanh tửNiết Bàn chẳng sanh chẳng diệt, chẳng khứ chẳng lai, những sở chứng ấy chẳng đắc chẳng thất, chẳng thủ chẳng xả, những năng chứng kia vô tác vô chỉ vô nhậm vô diệt, nơi pháp chứng này rốt cuộc vô năng chứng vô sở chứng, tất cả pháp tánh đều bình đẳng chẳng hoại.”(11)

Mắt bệnh nghiệp của loài người thì chỉ thấy thế giới ở trong phạm vi tương đối mà thôi vì tự thân chưa rời tương đối để vào bản thể Tuyệt Đối. Còn người đã giác ngộ rồi, hay đã chuyển thức thành trí rồi thì có đầy đủ Ngũ Nhãn, thấy thế giới vạn vật đều là chính nó hay Như Thị, Bất Nhị, và Không, vì đã trở về với bản thể Tuyệt Đối đó rồi. Vì vậy mà người còn mê sống trong vòng tương đối của sinh tử nhìn thấy cái gì cũng là sinh tử tương đối cả. Còn người giác ngộ thì thấy mọi thứ đều là tuyệt đối, ngay cả sinh tử, hay ngay cả những gì thuộc tương đối cũng là tuyệt đối, bởi vì người Giác Ngộ thấy tất cả là Như Thị, Bất Nhị, và Không.

Chính vì mắt phàm và thức phàm không thể nhìn thấy và suy lường được bản thể Tuyệt Đối mà hay cố nhìn và suy lường nên mới nghi rằng đức Phật đã thoát sinh tử thì sao cái thân tứ đại lại không thoát được sinh tử. Nên biết thân Như LaiPháp Thân Thanh Tịnh, là Tâm Tánh Bồ Đề, là Bản Thể Tuyệt Đối, chứ chẳng phải cái thân tứ đại do nhân duyên hòa hợp mà thành, nhân duyện biệt ly mà diệt. Do vậy thân tứ đại theo nhân duyên hòa hợp sinh diệt mà thân Như Lai chẳng đến đi. Kinh Kim Cang nói: “Như Lai giả, vô sở tùng lai diệc vô sở khứ cố danh Như Lai” (Như Lai là không từ đâu đến cũng không đi về đâu nên gọi là Như Lai). Kinh Kim Cang cũng có bài kệ:

“Nhược dĩ sắc kiến ngã

Dĩ âm thinh cầu ngã

Thị nhân hành tà đạo

Bất năng kiến Như Lai”

Tạm dịch Việt:

“Nếu dùng sắc thấy ta

Dùng âm thinh cầu ta

Người đó hạnh đạo tà

Không thể thấy Như Lai”

Bởi Như LaiPháp Thân Tịch Chiếu, là bản thể Tuyệt Đối Bất Nhị, không sanh không diệt, không đến không đi, không tăng không giảm, không dơ không sạch chứ đâu phải là thân tứ đại mà dùng mắt phàm và thức phàm mà thấy biết suy lường được. Dẫu có suy lường cũng là vọng tưởng phân biệt, cũng là sinh tử trần lao nào có đúng và dính dáng gì đâu! Cho nên Kinh Viên Giác, Phần Ba nói:

“Thiện nam tử! Tất cả thế giới những sự thủy, chung, sanh, diệt, trước, sau, có, không, tụ, tán, khởi, dừng, cho đến đủ thứ thủ xả đều là đối đãi, xoay vần tương sanh với nhau, niệm niệm tương tục, đều là luân hồi. Kẻ chưa ra khỏi luân hồiphân biệt Viên Giác thì tánh Viên Giác kia cũng đồng như luân hồi, vậy muốn khỏi bị luân hồi thì chẳng có chỗ đúng. Ví như mắt nháy thấy nước lặng dợn sóng, mắt ngó hẳn một chỗ thấy vòng lửa xoay tròn, do mây bay mau thấy mặt trăng đi nhanh, do thuyền đi thấy bờ trôi thì cũng như thế… Thiện nam tử! Theo cảnh giới sở chứng của hàng Thanh Văn, thân tâm ngôn ngữ đều đã đoạn diệt còn chẳng thể đến chỗ Niết Bàn của tự mình chứng, huống là dùng tâm suy tư để đo lường cảnh giới Viên Giác của Như Lai; ví như lấy lửa đom đóm để đốt núi Tu Di thì làm sao cháy được! Nay dùng tâm luân hồi, sanh tri kiến luân hồi mà muốn vào biển Đại Tịch Diệt của Như Lai thì làm sao đến được! Cho nên ta nói tất cả Bồ Tátchúng sanh đời mạt pháp, trước tiên phải đoạn dứt cội gốc luân hồi từ vô thỉ.”(12)

Chư tổ khi xưa thường nói “Phật tức là Tâm. Tâm tức là Phật”. Mà “Tâm” đây là chân tâm chứ không phải vọng tâm. Chân tâm thì vô hình vô tướng, vô thủy vô chung, là bản thể tuyệt đối, là Tánh Giác Thường Trụ, là Bồ Đề Niết Bàn, là Như Lai. Bản thể ấy có rất nhiều tên gọi nhưng những danh từ đó chỉ tạm dùng để đặt tên cho no mà tự thân ngôn từ chẳng phải là nó, vì những danh từ ấy cũng thuộc phạm trù của tương đối.

Tóm lại qua mắt nghiệp bệnh của con người mà thấy có sinh tửniết bàn, vô minhgiác ngộ vì còn ở trong vòng tương đối. Chính vì muốn trị bệnh lầm chấp nơi thân và tâm (vọng) của con ngườiđức Phật phải phương tiện dạy những giáo lý hay cho những toa thuốc để trị những cái bệnh chấp về thân và tâm. Do vậy mà có các pháp quán Khổ, Vô thường, Vô Ngã, Duyên Sinh, Thập Nhị Nhân Duyên v.v… để con người rời bỏ cái kiến chấp nơi thân và tâm cũng như những kiến chấp thuộc pháp tương đối mà từ từ thoát khổ sinh tử. Chứ kỳ thật trong bản Tánh Giác hay bản thể Tuyệt Đối thì không có sinh tử niết bàn, vô minh giác ngộ hay tất cả những gì thuộc tương đối. Có dẹp được hết những pháp tương đối thuộc vọng thức và vượt ngoài vòng tương đối ấy thì bản thể tuyệt đối mới lộ diện, cánh cửa Đại Thừa mới được mở rộng, Chân Tâm mới tự bừng sáng chiếu soi, và Trí Bát Nhã mới hiển bày. Đó chính là lý do vì sao Bát Nhã Tâm Kinh dùng chữ “Vô” để quét sạch ngũ uẩn, lục căn, lục trần, lục thức, tứ đế, thập nhị nhân duyên, lục độ của Bồ Tát, cho đến Phật thừa. Bởi vì dù còn một niệm nhỏ nhoi vi tế nào thuộc tình thức hư vọng thì cũng không rời được tình chấp, nên không thể vượt ngoài tương đối vào bản thể tuyệt đối được. Tất cả chư Phật trong quá khứ, hiện tạivị lai đều phải trải qua con đường nầy mới trở về được bản thể tuyệt đối hay Tâm Tánh Bồ Đề sẵn có nơi chính mỗi con người chúng ta. Chúng ta muốn giác ngộ giải thoát cũng phải đi qua con đường nầy mới có thể cùng với tất cả chư Phật trong ba đời mười phương cùng ở một chỗ. Chỗ mà chư Phật trong ba đời mười phương ở một chỗ đó là đâu? Chính là Thường Tịch Quang Tịnh Độ, tức không phải ở đâu xa, mà ngay nơi bản thể tuyệt đối, hay chân tâmmọi người sẵn có vậy. Cho nên Kinh Duy Ma Cật nói “Tùy kỳ tâm tịnh tức Phật độ tịnh. Nhược đắc tịnh độ đương tịnh kỳ tâm” (tùy cái tâm tịnh mà cõi Phật tịnh. Nếu muốn được tịnh độ phải tịnh tâm nầy) (13). Chính vì Tịnh ĐộTâm Tánh mình nên chẳng cần phải cầu sinh đi đâu, chỉ cần quét sạch mọi vô minh lầm chấp thuộc vọng thức thì tịnh độ hiện tiền. Và chính vì Phật là Tâm và Tâm là Phật nên cũng chẳng cần tìm Phật ở nơi nào khác ngoài Tâm, vì chẳng có Phật nào khác ngoài Tâm. Do vậy mà Kinh Kim Cang nói nếu dùng sắc thinh mà tìm cầu Phật thì đó là hạnh tà đạo sẽ không bao giờ thấy được Phật, Như Lai Tạng Tâm của chính mình! Xin hành giả lưu tâm đến điều nầy và liễu tri cho!


Thánh Tri kính viết

Đầu Hạ 2015

       


    

Tài Liệu Tham Khảo:

1. HT Thích Viên Giác. Tứ Thập Nhị Chương Kinh. <http://thuvienhoasen.org/a2163/kinh-bon-muoi-hai-chuong >
2. HT Thích Duy Lực. Kinh Thủ Lăng Nghiêm. <http://thuvienhoasen.org/a835/kinh-thu-lang-nghiem >
3. Nguyễn Minh Tiến. Quy Sơn Cảnh Sách. <http://thuvienhoasen.org/a2706/quy-son-canh-sach >
4. HT Thích Thiện Huệ. Kinh Bát Đại Nhân Giác Lược Giải của Ngẫu Ích Đại Sư. <http://www.tangthuphathoc.net/gianggiai/kinhbatdainhangiaclg.htm>   
5. HT Thích Thiện Siêu, Kinh Pháp Cú. <http://thuvienhoasen.org/a22120/kinh-phap-cu >
6. HT Thích Duy Lực. Truyền Tâm Pháp Yếu. <https://duylucthien.wordpress.com/2011/06/04/truy%E1%BB%81n-tam-phap-y%E1%BA%BFu-hoang-ba/>
7. HT Thích Duy Lực. Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật. <http://thuvienhoasen.org/a7558/bat-nha-ba-la-mat-da-tam-kinh-luoc-giai >
8. Ân Sư HT Thích Minh Điền. Kinh Tâm Bát Nhã Lược Giải.
9. HT Thích Duy Lực. Yếu Chỉ Trung Quán Luận. <http://thuvienhoasen.org/a7084/yeu-chi-trung-quan-luan >
10. HT Thích Duy Lực. Kinh Thủ Lăng Nghiêm. <http://thuvienhoasen.org/a835/kinh-thu-lang-nghiem >
11. HT Thích Duy Lực. Kinh Viên Giác. http://thuvienhoasen.org/a771/kinh-vien-giac  
HT Thích Duy Lực. Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết.http://thuvienhoasen.org/a2028/kinh-duy-ma-cat-so-thuyet
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 16525)
Kinh AN BAN THỦ Ý là một trong những bản kinh được xuất bản sớm nhất ở Viễn Đông và đã góp phần vào việc phổ biến Phật giáo qua việc giảng dạy cách thức thiền tập...
(Xem: 13128)
Bồ tát Long Thọ trước tác Trung luận gồm 27 phẩm (chương) 446 bài kệ, mỗi bài 4 câu, mỗi câu 5 chữ. Ở Ấn Độ các bản luận giải thích như Vô Úy luận...
(Xem: 12576)
Chữ A tỳ đạt ma luận thường để chỉ các luận thư của các bộ phái, chứ không dùng cho các luận thư Đại thừa. Abhidharma, Trung Hoa dịch âm là A tỳ đàm, A tỳ đạt ma, và dịch nghĩa là Vô tỷ pháp, Thắng pháp, Đối pháp.
(Xem: 13440)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32 số 1648 thuộc Luận Tập Bộ Toàn; Ưu Ba Đề Sa; Tăng Già Bà La; HT Thích Như Điển
(Xem: 11588)
Vãng sinh tập đều ghi chép nhiều truyện có thật đời xưa tu Tịnh độ được vãng sinh Tây phương của đủ các hạng người xuất gia lẫn tại gia, của cả loài vật... Chúc Đức dịch Việt
(Xem: 14142)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Luận Tập, Kinh số 1666; Bồ-tát Mã Minh tạo luận; Hán dịch: Chân Đế; Việt dịch: Nguyên Hồng
(Xem: 17648)
Đây là một quyển kinh Phật Giáo rất phổ thông và đã được dịch ra nhiều thứ tiếng quan trọng trên thế giới... Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 22277)
Kinh Pháp Hoa ai cũng biết là bộ Kinh Tối Thượng Thừa mà nó không phải Đại Thừa và cũng gọi là Phật Thừa... HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 13345)
Kinh PHÁP-HOA là một bộ kinh lớn mà từ xưa đến nay, sau khi đức Phật diệt-độ, được lưu thông nhứt và được nhiều người tụng-trì nhứt trong các bộ kinh lớn... HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 15421)
阿 毘 達 磨 俱 舍 論 A Tì Đạt Ma Câu Xá Luận I... dịch theo bản Sanskrit... Tuệ Sỹ
(Xem: 15948)
Phật Thừa Tôn Yếu luận là một trong nhiều tác phẩm của Đại sư Thái Hư, mang ý nghĩa bao quát nội dung giáo nghĩa Đại thừa Tiểu thừa... Thích Thiện Hạnh Dịch
(Xem: 11266)
Kim Sư Tử Chương là một tác phẩm rất ngắn của thầy Pháp Tạng nhưng bao hàm được giáo lý của Kinh Hoa Nghiêm... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 15566)
Luận Phật Thừa Tông Yếutùy thuận theo thời cơ lược nói về tông bảncương yếu của Phật pháp... Nguyên tác: Đại sư Thái Hư; Thích Nhật Quang dịch Việt
(Xem: 13054)
Thiết Lập Tịnh Độ là quyển sách của HT Thích Nhất Hạnh giảng giải về Kinh A Di Đà với góc nhìn thiền học
(Xem: 21757)
Quyển "Thập thiện nghiệp đạo kinh giảng yếu" của ngài Thái Hư Pháp sư, thấy tóm tắt dễ hiểu, lời lẽ giản dị mà ý nghĩa đầy đủ, lại rất hợp với căn cơ hiện tại... Thái Hư
(Xem: 15983)
Bản dịch Việt được thực hiện bởi Nhóm Phiên dịch Phạn Tạng, dựa trên bản Hán dịch của Huyền Trang, A-tì-đạt-ma Câu-xá luận... Tuệ Sỹ
(Xem: 18971)
Theo Viên TrừngTrạm Nhiên (1561- 1626), ở trong Kim cang tam muội kinh chú giải tự, thì Đức Phật nói kinh nầy sau Bát nhãtrước Pháp hoa... Thích Thái Hòa
(Xem: 24598)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
(Xem: 17476)
Hạnh Cơ tập hợp và chuyển dịch từ hai bản Luận: Duy Thức Tam Thập TụngBát Thức Qui Củ Tụng
(Xem: 16973)
Kinh Hoa Nghiêm phát xuất từ Ấn Ðộ, nhưng được phát triển mạnh ở Trung Quốc, Nhật Bản... HT Thích Trí Quảng
(Xem: 18435)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 18881)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18656)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 14297)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, Số 2072, nguyên tác: Minh Châu Hoằng; Nguyên Lộc Thọ Phước
(Xem: 22911)
Chứng Đạo Ca - Nguyên tác: Huyền Giác; Bản dịch thơ Chứng Đạo Ca của H.T Thích Thuyền Ấn, sáng tác những năm tháng từ 1980 - 1990, lúc Ngài đang bị quản thúc.
(Xem: 28213)
Duy Thức Tam Thập Tụng (唯 識 三 十 頌) Tài Liệu Học Tập Lớp Cao Học Triết của Đại Học Văn Khoa Viện Đại Học Vạn Hạnh, Niên Khóa: 1972-1973... HT Thích Thuyền Ấn
(Xem: 15068)
Luận Giải Trung Luận: Tánh Khởi và Duyên Khởi - Hồng Dương Nguyễn Văn Hai do Ban tu thư Phật học Viện Cao Đẳng Hải Đức ấn hành
(Xem: 13572)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, Kinh số 2031 - Hán dịch: Huyền Trang, Việt dịch: HT Thích Trí Quang
(Xem: 16251)
Luận Du Già Sư Địa (Phạn: Yogacàrabhùmi – sàtra), tác giảBồ tát Di Lặc (Maitreya) thuyết giảng, Đại sĩ Vô Trước (Asànga) ghi chép, Hán dịch là Pháp sư Huyền Tráng (602 -664)... Nguyên Hiền
(Xem: 142977)
Đại Tạng Việt Nam bao gồm 2372 bộ Kinh, Luật và Luận chữ Hán và tất cả đã kèm Phiên âm Hán Việt...
(Xem: 16207)
Giới là nguồn cội của hết thảy Thiện pháp, là nền tảng của Tam vô lậu học và mọi quả vị Giải thoát... Nguyên tác: Lý Viên Tịnh; Thích Giác Quả dịch
(Xem: 17288)
Tập Tổng quan kinh Đại Bát Niết-bàn này được chúng tôi biên soạn như một phần trong công trình dịch thuật và chú giải kinh Đại Bát Niết-bàn... Nguyễn Minh Tiến
(Xem: 47253)
Bấy giờ, năm trăm công tử Ly-xa, dẫn đầu bởi Bảo Tích (Ratnākāra), mỗi người mang theo một cây lọng quý, biểu hiệu quyền quý, đến vườn Xoài cúng dường Phật... Tuệ Sỹ
(Xem: 38923)
Trong Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
(Xem: 15686)
“Vũ trụ vạn hữu bản thể luận” của Định Hy là một kiến giải nhân sinh vũ trụ trên hai phương diện bản thểhiện tượng, tuy vậy không rời tính thực dụng của Phật pháp trong đời sống tu tập... Thích Đức Trí
(Xem: 22938)
Niệm Phật Vô Tướng - Lí Luận và Nhập Môn Pháp Môn Niệm Phật Viên Thông của Bồ Tát Đại Thế Chí, Nguyên tác: Tiêu Bình Thật cư sĩ, Cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 16652)
Bản nầy thứ tự kinh văn số 1726 được khắc vào đời nhà Minh Vạn Lịch -Trung Quốc - và đang lưu trữ tại Báo Ân Tạng thuộc chùa Jojoji - Tăng Thượng tự - Tokyo, Nhật Bản... HT Thích Như Điển
(Xem: 14185)
Du Già Sư Địa Luận Thích - Trước tác: Bồ Tát Tối Thắng Tử; Hán dịch: Tam-Tạng Pháp Sư Huyền Trang; Việt dịch: Thích Tâm Châu
(Xem: 13785)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, thuộc Luận Tập bộ toàn. Thứ tự kinh văn số 1663 (562-563)... HT Thích Như Điển
(Xem: 17066)
Tác Giả: Tăng Triệu Ðại Sư - Lược Giải: Hám Sơn Ðại Sư; Việt Dịch: Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 14223)
Toàn thể đại dụng, thu nhiếp xưa nay ngay trên đường; dứt trí tuyệt ngu, vật và ta ngang bằng nơi kiếp ngoại ... HT Thích Thiện Siêu
(Xem: 16812)
Luận về Pháp Hoa Kinh An Lạc Hạnh Nghĩa - Phiên dịch, chú giải: Daniel B. Stevenson & Hiroshi Kanno - Phiên dịch, thi hóa: Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm
(Xem: 27783)
Bộ kinh Lăng Nghiêm Tông Thông này được Ngài Thubten Osall Lama, tức Nhẫn Tế thiền sư, Đức Sơ Tổ Tây Tạng Tự, dịch và chú thích thêm từ bản Hán văn sang Việt văn...
(Xem: 49976)
Khi bạn tiếp tục tiến tới trên đạo lộ một cách đúng đắn, với ý định trở thành một con người giác ngộ, bạn phải kiểm soát tâm theo đúng cách...
(Xem: 38302)
Sách này thâu kết lời giảng của đức Đalai Lama về bài kinh ngắn mang tựa đề Bát Nhã Tâm Kinh, một trong những bộ kinh Phật giáo Ðại thừa quý giá nhất.
(Xem: 28428)
Trọng tâm cứu khổ của Ngài Quán Thế Âm nhằm giải thoát sự khổ tâm, khổ tinh thần. Một khi con người đã giải thoát khổ tinh thần thì thân thể sẽ lành mạnh.
(Xem: 51953)
Đại Luận Về Giai Trình Của Đạo Giác Ngộ (Lamrim Chenmo) - Nguyên tác: Je Tsongkhapa Losangdrakpa - Việt dịch: Nhóm Dịch Thuật Lamrim Lotsawas
(Xem: 35688)
Địa Tạng Bồ Tát Bản Tích Linh Cảm Lục - Liêu Nguyên dịch, Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 32745)
Kinh Kim Cương lấy vô tướng làm tông, vô trụ làm thể, diệu hữu làm dụng. Từ khi Bồ-đề Đạt-ma đến từ Tây Trúc truyền trao ý chỉ kinh này khiến người đời ngộ lý đạo, thấy tính.
(Xem: 50613)
Sự giải thoát tinh thần, theo lời dạy của Ðức Phật, được thành tựu bằng việc đoạn trừ các lậu hoặc (ô nhiễm trong tâm). Thực vậy, bậc A-la-hán thường được nói đến như bậc lậu tận...
(Xem: 63456)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 49478)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 56809)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 47344)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 39243)
Bát Thức Quy Củ Tụng - Những bài tụng khuôn mẫu giảng về tám thức tâm vương; tác giả: Huyền Trang; người toát yếu: Khuy Cơ, người dịch giảng: HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 38341)
Quyển "Vi Diệu Pháp Nhập Môn" ngoài tác dụng của bộ sách giáo Khoa Phật Học; còn là cuốn sách đầu giường của học giả nghiên cứu về Triết lý Ấn độ, cũng như Văn Học A Tỳ Ðàm...
(Xem: 36434)
Như Lai là bậc A-la-hán, chánh đẳng chánh giác, dùng pháp thắng tri (tuệ tri: biết sát na hiện tiền) hay pháp chánh tri kiến để liễu tri sự vật, không dục hỷ...
(Xem: 32102)
Nếu có ai hỏi ngài Duy Ma Cật: “Bản thể của thế giới này là gì?” thì trước sự im lặng của ngài Duy Ma Cật mà lại được Văn Thù Sư Lợi hết sức tán thưởng là có ý nghĩa sâu xa của nó.
(Xem: 46473)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 39875)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant