Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Phổ Môn Giải Nghĩa

02 Tháng Sáu 201618:49(Xem: 14823)
Kinh Phổ Môn Giải Nghĩa
KINH PHỔ MÔN

GIẢI NGHĨA
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa

Quyển Thứ Bảy

Phẩm Thứ Hai Mươi Lăm:

 “Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn


Hán dịch:
 Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập

Việt dịch: HT Thích Trí Tịnh

Giải nghĩa: Cư Sĩ Toàn Không

Kinh Phổ Môn Giải Nghĩa

 

GIẢI NGHĨA ĐỀ KINH:

 Để dễ hiểu, chúng ta phân biệt dùng chữ nghiêng đậm là lời kinh, chữ thẳng đứng để giải thích, chúng ta cùng theo dõi sau đây:

 

ĐỀ KINH:

 

QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT PHỔ MÔN.

 

GIẢI NGHĨA:

Quán là coi xét soi rọi vào tâm để nhận thức đối tượng như quán tưởng, chỉnh lý lại sửa đổi lại, Quan là chú ý xem, ý thức.

Thếthế gian, có nghĩa là sự vận động tương tục không ngừng của sự vật, ở đây nhằm chỉ bày sự tương tục của tâm tưởng con người, còn có nghĩa là bỏ đi, thay cho, cắt đi dãy đi cỏ hoang.

Âm là tiếng nói âm vang, là không rõ ràng như âm u tượng trưng của những sự không tốt lành.

Quán Thế Âm: Nghĩa là coi xét tiếng nói lời than của thế gian, tiêu biểu cho lòng từ bi của Bồ Tát, ngài quán xét lắng nghe những lời kêu than của chúng sinh và khởi lòng từ bi thương xót cứu độ họ. Nghĩa thật là biểu trưng danh hiệu "Nhân cách hóa một phương pháp tu tập", là quán sát coi xét xa lià bỏ đi những khúc mắc, dính mắc, buồn phiền, những điều u tối trong tâm, ở đây có ý nghĩatu hành, quán xét dứt trừ những vọng tưởng trong tâm liên tiếp khởi lên.

Phổ là rộng khắp, Môn là cửa, Phổ Môn là cửa mở rộng cùng khắp thông suốt không giới hạn; cửa mở rộng cùng khắp này là cửa pháp rộng lớn thông suốt khắp tất cả, không giới hạn, tượng trưng cho Pháp Môn tu hành mà ai cũng có thể vào tu được cả.

*

*   *

GIẢI NGHĨA KINH VĂN:

KINH VĂN 1:

NHÂN DUYÊN TÊN QUÁN THẾ ÂM

Lúc bấy giờ, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát (1) liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu (2), chấp tay hướng Phật mà bạch rằng: "Thế Tôn! Ngài Quán-Thế-Âm Bồ-Tát do nhân duyên gì mà tên là Quán-Thế-Âm?"
Phật bảo ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát: "Thiện-nam-tử (3)! Nếu có vô lượng trăm nghìn muôn ức chúng sanh chịu các khổ não, nghe Quán-Thế-Âm Bồ-Tát này một lòng xưng danh. Quán-Thế-Âm Bồ-Tát tức thì xem xét tiếng tăm kia, đều được giải thoát.

Nếu có người trì danh hiệu Quán-Thế-Âm Bồ-Tát này, dầu vào trong lửa lớn, lửa chẳng cháy được, vì do sức uy thần của Bồ-Tát này được như vậy.

Nếu bị nước lớn làm trôi, xưng danh hiệu Bồ-Tát này liền được chỗ cạn.

Nếu có trăm nghìn muôn ức chúng sanh vì tìm vàng, bạc, lưu ly, xa-cừ, mã-não, san-hô, hổ-phách, trân châu các thứ báu, vào trong biển lớn, giả sử gió lớn thổi ghe thuyền của kia trôi tắp nơi nước quỉ La-sát, trong ấy nếu có nhẫn đến một người xưng danh hiệu Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, thì các người đó đều được thoát khỏi nạn quỉ La-sát. Do nhân duyên đó mà tên là Quán-Thế-Âm.

GIẢI NGHĨA:

(1) Vô-Tận-Ý Bồ-Tát: Vô tận là không cùng tận, vô lượng vô biên, Ýý nghĩ, suy nghĩ, tưởng nhớ, Bồ Tát là chỉ một vị Thánh trong Phật giáo Bắc truyền, nói cho đủ thì đó là «Bồ-đề tát-đỏa», chữ Phạn là Bodhisattva, dịch nghĩa là «Giác hữu tình»; chữ hữu tình là có khí huyết, chỉ chúng sanh. Bồ tát là một chúng sanh đã giác ngộ về “chỉ làm việc lành không làm việc ác”; Bồ Tát Vô Tận ý nghĩa là vị Bồ Tát đại diện tượng trưng cho chúng sinh có đủ các thứ suy nghĩ, có vô lượng tưởng nhớ muôn vàn sự việc.

 

(2) Trịch áo bày vai hữu: Chính là vai bên phải, để lộ bên vai phải là có ý nghĩa:

Thứ nhất: Theo phong tục của người Ấn, khi khí trời nóng nực, họ trật một bên vai áo để hơi nóng ở trong mình thoát ra.

Thứ hai: Hở vai bên phải là cách thức tỏ bày sự cung kính, cung kính bằng cả thân và tâm, một bên là tùy thuận thế tục, một bên là cầu pháp xuất thế nên biểu thị sự cung kính.

(3) Thiện-nam-tử: Thiện có nghĩa là không nghĩ không nói không làm việc ác, như không sát sinh trộm cướp tà dâm nói dối uống rượu; Thiện nam tử chính là người giữ đầy đủ 5 giới và làm nhiều điều thiện vậy.

     Khởi đầu Kinh Văn 1, Bồ Tát Vô Tận Ý hỏi Đức Phật rằng: “Ngài Quán-Thế-Âm Bồ-Tát do nhân duyên gì mà tên là Quán-Thế-Âm?Đức Phật trả lời rằng: “Nếu có vô schúng sanh bị các khổ não, nghe Quán-Thế-Âm Bồ-Tát này một lòng xưng danh”, có nghĩa là nếu có vô số chúng sinh bị các khổ não mà một lòng chuyên niệm nhất tâm, quán sát suy ngẫm nguyên nhân gây ra sự khổ não, coi xét thấy các khổ não ấy là không thật, là giả, là huyển có.

     Rồi xa lià bỏ đi đoạn dứt các huyển khổ và nguyên nhân gây ra khổ ấy, lại chuyên làm các việc tốt lành, tránh làm các việc xấu ác để gây nhân tốt, thì những buồn phiền sẽ không còn hoành hành nữa, tức là được giải thoát khỏi các khổ não, vì thế cho nên Đức Phật nói câu: “tức thì xem xét tiếng tăm kia, đều được giải thoát” là vậy.

Nếu có người trì danh hiệu Quán-Thế-Âm Bồ-Tát này: Nghĩa là nếu người nào không nghĩ chuyện gì khác, thực hành chỉ một lòng nhất tâm niệm cho nhu nhuyễn (trì), nghiệm xét (Quán); rồi bỏ đi dứt trừ những sự tương tục của tâm tư vọng tưởng (Thế), xa lià những vọng tưởng, những điều u tối, những ràng buộc, những gì gọi là tiêu cực trong tâm (Âm).

     Khi đã quán chiếu tu luyện như thế được đầy đủ nhu nhuyễn rồi, thì sức dụng tự tính hiện và các khổ nạn được giải thoát, vì vậy Đức Phật nói: “thì dầu vào trong lửa lớn, lửa chẳng cháy được, vì do sức uy thần của Bồ-Tát này được như vậy”, tại sao? Vì lửa tượng trưng cho sự sân giận hận thù ngút trời, khi tu luyện kiên cố, nghĩa là quán sát thấy rõ ràng sự sân hận là ung nhọt là gai nhọn, nó tai hại vô cùng, cần phải xa lià rời bỏ nó.

     Quán chiếu tư duy như thế rồi, vị ấy gạn lọc tâm để không còn một chút suy nghĩ tưởng nhớ về sân giận, thì những sân hận làm sao còn hiện hữu trong tâm, sự sân hận không còn thì làm gì còn lửa để hại vị ấy nữa. Bởi vậy mới nói là “do sức oai thần của Bồ Tát làm việc này mới được như vậy” đó. Chứ chẳng phải do Bồ Tát Quán Thế Âm dùng thần thông đến, dùng phép cứu nạn chúng sinh bị lửa đốt, khiến lửa không thể cháy mà lầm to và rơi vào mê tín từ bao lâu nay mà nhiều người không biết.

Nếu bị nước lớn làm trôi: Nước tượng trưng cho tham ái như nghe tiếng đàn ca du dương ủy mị, nghe lời nói ngọt ngào, giọng nói nịnh bợ tâng bốc, tâm thần dễ bị mê mẩn, bị cuốn trôi nhận chìm trong tham ái, từ đó dẫn đến khổ đau. Như nghe lời nịnh hót khiến bị lừa đảo, hậu qủa là đau khổ; tánh luyến ái này được ám chỉ như một hình thức bị cuốn trôi nhận chìm trong nước.

Nếu xưng danh hiệu Bồ-Tát này liền được chỗ cạn: Tại sao được vậy? Vì nếu tu hành tới mức, nghĩa là quán xét để thấy rõ những tham lam luyến ái như lưới bắt, như bẫy sập, như mồi nhử, như bả thơm ngon mà độc hại. Quán sát thấy như thế rồi thì không còn tham ái nữa mà xa lià chúng, rời bỏ chúng.

Như vậy sẽ không còn bị tham ái hành hạ đưa đến khổ đau mà được thoát khỏi những thứ ấy, ví như bị nước cuốn trôi nhận chìm mà được vào chỗ cạn vậy. Chứ chẳng phải bị nước cuốn trôi rồi cầu xin Quán Thế Âm đến cứu đâu mà lầm lẫn to lớn, vì như thế là rơi vào tin Thần quyền mê tín dị đoan nhảm nhí, sẽ bị Đức Phật quở là người u mê.

     Muốn khỏi bị những tai họa lửa nước thật sự, thì phải tu nhân tích đức bằng cách tu hạnh Bồ Tát là làm tất cả các việc lành, tránh làm tất cả các việc ác theo Giới luật cho người tu đạo Bồ Tát, gồm 6 Giới trọng và 28 Giới khinh. Nhưng còn phải hỏi người tu này có gây trọng tội trong các đời trước hay không.

      Nếu khôngtrọng tội nào đã gây, thì chẳng thể gặp qủa xấu tai họa, còn đã từng gây trọng tội ở những kiếp trước rồi thì khó mà thoát khỏi tai họa. Chỉ có điều là khi đã có sự tu hành thì hy vọng công đức tu hành này làm cho nghiệp ác kia khó hiển hiện ra, và như vậy là có tu có phúc lành vậy.

Nếu có trăm nghìn muôn ức chúng sanh vì tìm vàng, bạc, lưu ly, xa-cừ, mã-não, san-hô, hổ-phách, trân châu các thứ báu, vào trong biển lớn, giả sử gió lớn thổi ghe thuyền của kia trôi tắp nơi nước quỉ La-sát, trong ấy nếu có nhẫn đến một người xưng danh hiệu Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, thì các người đó đều được thoát khỏi nạn quỉ La-sát. Do nhân duyên đó mà tên là Quán-Thế-Âm.

Các thứ qúy như vàng, bạc, v.v… gọi là Thất Bảo, tượng trưng cho Thất Thánh Tài là tín, giới, văn, tàm quý, niệm, định, xả của người tu, nghĩa là người tu phải học hỏi Kinh Luận Luật của Phật rồi suy nghĩ điều phải điều trái, ghi nhớ không quên (Văn), khi đã suy nghiệm kỹ càng rồi thì phải tin tưởng hoàn toàn (Tín).

 

     Phải giữ luật nghi đầy đủ theo quy củ phần hành của hành giả (Giới), (Như Cư sĩ giữ 5 Giới, Bồ Tát tại gia 6 Giới trọng và 28 Giới khinh, Bồ Tát xuất gia 10 giới trọng và 48 Giới khinh, Tu sĩ nam 250 Giới, Tu sĩ nữ 348). Người tu phải biết tự xấu hổ và biết thẹn với người khi có lỗi (Tàm, Qúy), phải luôn luôn nhớ tu hành (Niệm), phải hành thiền và biết cách làm sao để định tâm (Định), và biết bỏ đi tất cả những gì dính mắc vào tâm (Xả).

 

Trong biển lớn tượng trưng cho trong cuộc đời, thuyền tượng trưng cho trong cộng đồng, một xã hội, một nước v.v…

Gió lớn tượng trưng cho Tám thứ gió trong cuộc sống bon chen là “Được Mất (thắng bại), Đúng Sai (phải trái), Vinh Nhục (hơn thua), Vui Buồn (sướng khổ)”. Tám thứ gió này nó là mồi bả của thế gian, nó luôn luôn hành hạ con người, làm cho con người bị cuốn trôi theo dòng đời, làm cho bị quay cuồng trong cuộc sống, khiến đầu óc con người trở thành điên đảo tối tăm, gây nên bao nhiêu phiền toái, tội ác, tạo nghiệp qủa phải sinh tử luân hồi vào các đường lành thì ít mà vào đường ác thì nhiều, không có ngày ra khỏi.

Nước Qủy La Sát tượng trưng tánh độc hại hung bạo tàn ác giết người. Nhẫn là khó nói ra lời.

 

Nếu trong ấy có nhẫn đến một người xưng danh hiệu Quán Thế Âm thì các người đó đều được thoát nạn Qủy La Sát, nghĩa là trong số những người ấy dù chỉ có một người thôi, nói chi nhiều người, tu hành nghiêm chỉnh. Quán sát Tám thứ gió, suy xét tham sân si mạn v.v…, thấy chúng gây nên tánh độc hại hung bạo tàn ác giết hại là nguồn gốc của mọi đau khổ.

 

     Từ đó xa lià dứt bỏ những thứ này, thực hành Sáu độ là “Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh Tấn, Thiền định, Trí Tuệ”, thì sẽ tiến đến giải thoát. Được giải thoát rồi, người đó sẽ độ cho hết thảy các người khác, các người khác được gần người đã giải thoát nên học hỏi giáo phápthực hành theo thì sẽ đều được thoát khổ, do đó Đức Phật nói “các người đó đều được thoát nạn Qủy La Sát” là vậy.

 

    Chẳng phải đâu, nếu cho rằng khi đoàn người đông đảo đi tìm trân bảo trong biển lớn bị bão tố thổi thuyền trôi rạt vào đảo đầy qủy ăn thịt người. Rồi chỉ cần một người chẳng tu hành gì cả, vì sợ chết mà phải cầu nguyện niệm Quan Thế Âm hay cầu xin van nài vị Thần linh nào đó cứu nạn, mà mọi người trong đoàn ấy đều được thoát nạn, thì đây là lầm lẫn to lớn, cần phải tỉnh táo suy nghĩ quán sát sẽ thấy rõ được sự lầm lẫn tai hại này.

 

Do nhân duyên đó mà tên là Quán-Thế-Âm: nghĩa là do nhân duyên quán xét Tám thứ gió và tham sân si mạn v.v…, nên thấy rõ chúng là nguyên nhân gây ra tánh độc hại hung bạo tàn ác giết hại. Vì thấy rõ ràng nó là nguyên nhân của đau khổ buồn phiền, nên quyết tâm xa lià dứt bỏ nó như vứt bỏ chiếc áo dơ bẩn rách nát hôi tanh và tu hành nghiêm chỉnh để giải thoát khỏi mọi ràng buộc của những xấu xa tai hại ấy, do đó Đức Phật nói: “Do nhân duyên đó mà tên là Quán Thế Âm.

 

(Còn tiếp)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 6206)
Niềm tin sâu xa nhất trong giáo lý nhà Phật là tất cả mọi người đều có thể tự cải biến mình trong từng giây phút một. Chẳng có gì gọi là định mệnh cả.
(Xem: 6536)
Đây là một danh từ rất phổ thông trong chốn thiền môn.
(Xem: 7791)
Nhẫn nhục là chịu nhịn những điều sỉ nhục xấu hổ, nhục nhã, chịu đựng tổn thương trước những cảnh, sự việc không vừa lòng, nghịch ý, trái tai gai mắt;
(Xem: 6297)
Nền giáo dục hòa bình của Đạo Phật là một con đường đạo đức nhân bảnthiết thực, là căn cứ trên chân lý từ bi, công bằng và...
(Xem: 6616)
Chúng ta chỉ có thể nhìn thấy mọi sự vật, hiện tượng trong phạm vi giới hạn của đôi mắt mình, nhưng...
(Xem: 5737)
Tôi đến với Phật pháp vì … quá khổ.
(Xem: 5637)
Phải luôn luôn có tâm tùy hỷ đến tất cả mọi người, nếu chưa được giải thoát thì sau khi chết, năng lực tùy hỷ sẽ đẩy mình đến những cảnh giới tốt.
(Xem: 5691)
Tinh túy của đạo Phật là: nếu có khả năng, ta nên giúp đỡ người khác; nếu không thể giúp họ, thì tối thiểu nên hạn chế việc gây hại cho họ.
(Xem: 6806)
Chúng ta biết tu là chúng ta biết sống. Một thứ tài sản không bao giờ bị mất. Ai muốn giàu, muốn sung túc thì hãy ráng nhớ giữ gìn tài sản này.
(Xem: 6081)
Thuyết bốn Đế, tức bốn Chân lýcăn bản, là cốt lõi tinh túy của đạo Phật, là nội dung bài thuyết pháp đầu tiên của Phật ở Vườn Nai (Bénarès).
(Xem: 7092)
Đạo Phật thường quán niệmsuy tưởng về khổ đau vì đó là kinh nghiệm chung của toàn thể nhân loại.
(Xem: 6209)
Chúng ta chẳng cần tìm Phật ở đâu xa, ngài luôn luôn ở ngay trong cuộc đời, nhưng chúng ta không thấy, vì ...
(Xem: 6172)
Chúng ta có thể tìm ra chánh pháp của Phật, nghĩa là chân lý, ở khắp mọi nơi, chứ không bắt buộc chỉ tìm trong kinh điển.
(Xem: 6603)
Chúng ta đã tìm Phật và tìm Pháp, nay phải đi tìm Tăng cho đủ Tam Bảo, nói cho đủ là Tăng già, phiên âm chữ Phạn Sangha.
(Xem: 5901)
Dù là xuất gia hay tại gia, thường niệm pháp Quy Y trong đời sống, lấy Tam Bảo làm mục đích làm lợi ích cho Dân Tộc và cho cả chúng sinh.
(Xem: 6056)
Kinh sách và Đạo Pháp của Phật không phải giúp để góp nhặt sự hiểu biết mà phải dùng để tự biến cải lấy chính ta.
(Xem: 6452)
Tâm chúng sinh và Phật vốn không khác. Tất cả đều do tâm tạo. Mười cõi cũng do tâm tạo.
(Xem: 5693)
" Nầy các Tỳ kheo Như Lai nói tác ý tức là nghiệp vì có ý muốn làm mới có hành động thân khẩu ý ". Như vậy mười nghiệp lành là 10 điều giúp cho con người thực hiện trong sạch hoá thân khẩu và ý .
(Xem: 6827)
Khái niệm về sự tái sinh không phải là một khái niệm đặc thù của Phật Giáo mà đấy chỉ là một học thuyết chủ trương sự « đầu thai »
(Xem: 6006)
Có những niềm tin gây mê lầm, tội lỗi, gieo tai họa cho chính những người mang niềm tin đó mà họ không hay không biết, hoặc gieo tai họa lên nhiều người...
(Xem: 5873)
Theo kinh Lăng-già, Bồ-tát vì muốn độ tất cả chúng sanh đạt đến Niết-bàn nên phát nguyện ở lại thế giới nhiều khổ đau này để làm lợi ích cho chúng sanh.
(Xem: 6577)
Phật pháp tại thế gian, chẳng thể lìa thế gian mà có. Thế nên biết, người muốn ngộ được lẽ thật của muôn pháp, cũng phải từ muôn pháp mà ngộ,
(Xem: 5487)
Phật pháp tại thế gian, chẳng thể lìa thế gian mà có. Thế nên biết, người muốn ngộ được lẽ thật của muôn pháp, cũng phải từ muôn pháp mà ngộ,
(Xem: 5556)
Tin nhân quả làm chúng ta an tâm. Sự hợp lý, trật tự, ý nghĩa của một cuộc đời là do nhận thức được và sống theo nhân quả.
(Xem: 8054)
Mười nghiệp lành không những ngăn giữ chúng sanh khỏi bị đọa lạc vào bốn con đường đau khổ, mà còn mở cánh cửa thênh thang hạnh phúc an vui của phước báu nhân thiên sang cả.
(Xem: 6131)
Theo tâm lýkinh nghiệm, việc chọn lựa một tông phái để theo, phần lớn tùy thuộc vào sở thích và môi trường sinh sống của từng người.
(Xem: 5700)
Tất cả các hệ thống giáo lý phong phú của đạo Phật chỉ có một mục đích duy nhất là trình bày phương pháp và đường lối giải thoát,
(Xem: 8846)
Một người đã tin ở luật nhân quả trong đời hiện tại thì cũng phải tin ở luật nhân quả các đời quá khứ, và vị lai.
(Xem: 6523)
Thực tế cho chúng ta thấy, người học đạo thì nhiều, nhưng để sửa tâm tánh thì không bao nhiêu, đó là kết quả do việc không chịu lắng nghe.
(Xem: 5881)
"Con người là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự nghiệp. Nghiệp là thai tạng mà từ đó con người được sinh ra; nghiệp là quyền thuộc, là nơi nương tựa" .
(Xem: 5787)
Ngày nay phong trào nghiên cứu Phật học không còn bị thu hẹp trong giới Phật giáo mà đã phổ biến vào mọi tầng lớp của xã hội, không phần biệt Tôn giáo.
(Xem: 5289)
Học Phật là học con đường trở về với chân tâm, với Phật tánh—vốn hàm tàng nơi chính mình và tất cả chúng sinh.
(Xem: 6716)
Phật giáo nguyên thủy, xuất phát từ miền nam Ấn Độ, rồi được truyền sang Tích Lan, từ Tích Lan truyền qua Miến Điện, Thái Lan, Campuchia, Lào...
(Xem: 6943)
Sám hối không có nghĩa là hết tội nhưng nó có mãnh lực làm cho tâm mình thanh thản, nhẹ nhàng vì vậy nó giúp ngăn hay chận bớt những ác nghiệp mà mình đã tạo ra.
(Xem: 11065)
Tứ đếgiáo nghĩa cơ bản dùng để giải thích mọi hiện tượng nhân sinh vũ trụ được quy nạp từ thập nhị nhân duyên, là con đường trung đạo duy nhất giải thoát sinh tử luân hồi.
(Xem: 8030)
“Những Điều Phật Đã Dạy” là một trong những quyển sách nói về Phật học bán chạy nhất ở các nước phương Tây, được dịch ra nhiều thứ tiếng...
(Xem: 6058)
Tham sống sợ chết, đó là sự thật của người đời. Thế nhưng tại sao lại giết hại, cắt đứt sự sống của chúng sanh khác?
(Xem: 5410)
Theo nguyên tắc chung, tôi nghĩ rằng tôn giáo của cha mẹ mình là tôn giáo thích nghi nhất cho mỗi người.
(Xem: 7065)
Quan niệm về cái gọi là "đời cha ăn mặn đời con khát nước" cho rằng có một cái gì vô hình lưu truyền cái nhân xấu do đời cha tạo ra và chuyển giao cái quả xấu do nhân xấu mang lại cho con cái.
(Xem: 6000)
Học Phật không phải chỉ biết được lời Phật dạy, biết qua kiến thức suông để đàm luận, lý luận, mà cần phải thực tập, áp dụng vào cuộc sống của mỗi người trong sự nghe thấy, tư duy và hành động.
(Xem: 6435)
Trong Phật Pháp, đức Phật đã chỉ sẵn một phương pháp, một nghệ thuật hay còn gọi là một bí quyết để có một đời sống hạnh phúc, đó là gìn giữ năm giới.
(Xem: 21080)
Vô thườngtính chất căn bản của đời sống; tất cả mọi sự vật sinh ra có điều kiện đều có tính chất của bốn giai đoạn “thành, trụ, hoại, diệt”
(Xem: 5826)
Mỉm một nụ cười, trở về với một hơi thở, bước một bước chân thảnh thơi... cũng có thể là những phép lạ giữa một cuộc sống căng thẳng và quá bận rộn.
(Xem: 7181)
Về phương diện đạo lý, Phật giáo cao hơn các hệ thống đạo đức khác, nhưng đạo đức chỉ là bước đầu chứ không phải cứu cánh của Phật giáo.
(Xem: 8609)
Bát Chánh Đạogiáo lý căn bản của Đạo đế (trong Tứ Đế) gồm ba mươi bảy phẩm trợ đạo. Đây là những phương tiện hành trì phổ biến sâu rộng chung cho Ngũ thừa Phật giáo.
(Xem: 6893)
Chữ Không của Bát Nhã đứng vững là dựa trên lý nhân duyên, nếu lý nhân duyênchân lý thì chữ Không cũng sẽ là chân lý.
(Xem: 7749)
Đây là 4 pháp, 4 nguyên tắc sống mà tiền thân chư Phật, tức chư Bồ-tát thường áp dụng để nhiếp hóa, cảm hóa chúng sanh...
(Xem: 5392)
Có những người sinh trưởng ở những nơi mà niềm tin về tái sinh là một thành phần trong nền văn hóa của họ.
(Xem: 18642)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 14439)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13601)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13563)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 11830)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13279)
Không khởi sinh cũng không hoại diệt, không thường hằng cũng không đứt đoạn. Không đồng nhất cũng không dị biệt, không từ đâu đến cũng không đi mất.
(Xem: 13678)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 13951)
công đức của Pháp tánh là không cùng tận, cho nên công đức của người ấy cũng giống như vậy, không có giới hạn.
(Xem: 13261)
Phật Thích Ca gọi cái pháp của Ngài truyền dạy là pháp bản trụ. Nói bản trụ nghĩa là xưa nay vốn sẵn có.
(Xem: 15037)
Thanh tịnh đạo có thể xem là bộ sách rất quý trong kho tàng văn học thế giới, không thể thiếu trong nguồn tài liệu Phật học bằng tiếng Việt.
(Xem: 16171)
Không và Hữu là hai giáo nghĩa được Đức Phật nói ra để phá trừ mê chấp của các đệ tử.
(Xem: 11098)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant