Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Cư Sĩ Giới Pháp

06 Tháng Hai 201100:00(Xem: 22267)
Cư Sĩ Giới Pháp

THERAVĀDA - PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY
CƯ SĨ GIỚI PHÁP

Tỳ kheo Giác Giới (Bodhisīla Bhikkhu) biên soạn

PL. 2550 - TL. 2006

blank
MỤC LỤC

Chương I. Cư sĩ trong Phật giáo 
I.1. Tứ chúng Phật giáo 
I.2. Ý nghĩa U-bà-tắc và U-bà-di 
I.3. Những cư sĩ đầu tiên 

Cận sự nam đầu tiên qui y nhị bảo 
Cận sự nam đầu tiên qui y Tam bảo 
Cận sự nữ đầu tiên qui y Tam bảo 
I.4. Những cư sĩcông hạnh lớn 
Người cư sĩ xây dựng ngôi chùa đầu tiên
Người cư sĩ hộ độ Tam bảo tích cực 
Người cư sĩ hộ pháp quan trọng 
I.5. Quả vị tu hành của người cư sĩ 
I.6. Vai trò cư sĩ trong Phật giáo 
Vai trò hộ pháp 
Vai trò thừa tự pháp 
Chương II. Các pháp môn thuyết cho cư sĩ 
II.1. Mười hạng cư sĩ 
II.2. Năm pháp tánh người cận sự Tam bảo 
II.3. Mười đức lành của người Phật tử 
II.4. Bốn điều hạnh phúc của cư sĩ 
II.5. Bốn pháp tạo lợi ích hiện tại 
II.6. Bốn pháp đem lại lợi ích tương lai 
II.7. Bốn đức hạnh người tại gia 
II.8. Bốn pháp thịnh của gia đình 
II.9. Tám nguồn công đức sanh trời người 
II.10. Bốn sự chung sống gia đình 
II.11. Bốn nhân duyên tạo xứng đôi vợ chồng 
II.12. Năm nghề buôn bán trái đạo của cư sĩ 
II.13. Mười bất thiện nghiệp đạo 
II.14. Mười thiện nghiệp đạo 
II.15. Mười phước nghiệp sự, thập hạnh phúc 
II.16. Bảy pháp bất thối của người cư sĩ 
II.17. Bảy pháp suy thoái của người cư sĩ 
II.18. Tám lỗi lầm khiến tăng chúng úp bát 
II.19. Chín khuyết điểm - Tăng không đến nhà 
II.20. Sáu cửa suy vong cho người cư sĩ 
II.21. Bốn hạng ngụy bằng hữu 
II.22. Bốn hạng chân bằng hữu 
II.23. Các bổn phận giữa cha mẹ và con cái 
II.24. Các bổn phận giữa thầy và trò 
II.25. Các bổn phận giữa vợ và chồng 
II.26. Các bổn phận giữa bạn bè chủ khách 
II.27. Các bổn phận giữa người chủ và người làm 
II.28. Các bổn phận giữa cư sĩsa môn 
Chương III. Pháp môn tu tập của cư sĩ 
III.1. Qui y Tam bảo (Tisaraṇagamana) 
Ý nghĩathái độ qui y 
Yếu tố để thành tựu qui y 
Hình thức qui y 
Sự kiện bợn nhơ qui y 
Sự kiện đứt đoạn qui y 
Lợi ích của sự qui y 
III.2. Hạnh bố thí (dāna) 
Ý nghĩa pháp bố thí 
Điều kiện bố thí 
Hình thức bố thí 
Tâm lý bố thí 
Cung cách bố thí 
Quả phúc bố thí 
III.3. Hạnh trì giới (sīla) 
Ý nghĩa pháp trì giới 
Yếu tố trì giới 
Phân loại giới của người cư sĩ 
Chi của giới 
Pháp hỗ trợ cho giới 
Quả phúc của sự trì giới 
III.4. Hạnh tu tiến (bhāvanā) 
Ý nghĩa tu tiến 
Các hình thức tu tiến 
Pháp môn tu tiến cho người cư sĩ 
Điều kiện cho việc thực hành tu tiến 
Tu tiến với đề tài tùy niệm
Niệm Phật 
Niệm pháp 
Niệm Tăng 
Niệm giới 
Niệm thí 
Niệm thiên 
Niệm chết 
Niệm thân 
Niệm hơi thở 
Niệm tịch tịnh 
Tu tiến với đề tài bốn phạm trú
Tu tập tâm từ 
Tu tập tâm bi 
Tu tập tâm hỷ 
Tu tập tâm xả 
Tu tiến với đề tài quán tưởng 
Chương IV. Các nghi thức khóa lễ 
IV.1. Nghi thức tụng niệm 
IV.2. Nghi thức qui y 
IV.3. Nghi thức thọ ngũ giới 
IV.4. Nghi thức thọ bát quan trai giới 
IV.5. Nghi thức sám hối lệ kỳ mỗi nửa tháng 
IV.6. Nghi thức thính pháp 
IV.7. Nghi thức lễ cầu an 
IV.8. Nghi thức lễ cầu siêu 
IV.9. Nghi thức chúc thọ 
IV.10. Nghi thức cúng dường trai tăng 
IV.11. Nghi thức cúng dường bát hội 
IV.12. Nghi thức cúng dường y tắm mưa 
IV.13. Nghi thức cúng dường y kaṭhina 
IV.14. Nghi thức cúng dường y ngoại thời 
IV.15. Nghi thức cúng dường liêu cốc 
IV.16. Nghi thức cúng dường hội trường 
IV.17. Nghi thức cúng chánh điện 
IV.18. Nghi thức cúng dường thuốc trị bệnh 
IV.19. Nghi thức cúng dường tứ sự 
IV.20. Nghi thức ấn tống kinh sách 
IV.21. Nghi thức lễ an vị Phật 
IV.22. Nghi thức lễ nhiễu Phật 
Chương Phụ lục. Các vấn đề cần biết 
Vấn đề thờ cúng của người Phật tử 
Vấn đề lễ nghi của người Phật tử 
Vấn đề trang phục của người Phật tử 
Vấn đề ngôn ngữ của người Phật tử 
Vấn đề ẩm thực của người Phật tử 
Vấn đề hưởng thụ của người Phật tử 

LỜI GIỚI THIỆU

Cư Sĩ Giới Pháp là tập sách giáo khoa Phật học của người cư sĩ, giải thích rõ ràng về nghi lễ giới luậtpháp môn tu cho người Phật tử tại gia biết để thực hành cho đúng ý nghĩa cận sự nam, cận sự nữ (hay thiện nam, tín nữ) trong Phật giáo.

Mặc dù đời sống của người Phật tử đặt trên tinh thần tự giác, và giáo lý nhà Phật cũng không phải là giáo điều áp đặt, bắt buộc tín đồ phải chấp nhận, thế nhưng cũng có những điều nên làm và những điều nên tránh, được y cứ trên luật nhân quả nghiệp báoĐức Phật là đấng Đạo Sư sáng suốt thấy rõ chân lý, như các nhà khoa học phát minh những công thức điện học, quang học v.v...

Những giới pháp trong quyển Cư Sĩ Giới Pháp này như là những công thức hơn là giáo điều, để giúp người cư sĩ tại gia tu tập tiến hóa.

Tôi xin trân trọng giới thiệu đến chư Phật tử

Namo buddhāya. 
Tỳ Kheo Giác Chánh

 
 

LỜI NÓI ĐẦU

Người tu Phật có hai giới, giới xuất gia và giới tại gia. Giới tại gia là những nam, nữ cư sĩniềm tin Phật pháp, tạo thiện phước, cũng tu tập nhưng chưa rời bỏ gia đình

Người cư sĩ cũng đóng một vai trò quan trọng trong sự tồn vong của Phật giáo. Người cư sĩ cần phảikiến thức Phật pháp căn bản và biết về lễ nghi khi đến chùa làm phước hay ở nhà xử sự cho hợp lẽ đạo. Tất nhiên, có sự khác biệt giữa Phật tử Nam Tông, Phật tử Bắc TôngPhật tử Khất Sĩ. Ở đây quyển Cư Sĩ Giới Pháp này nhằm hướng dẫn cho cư sĩ Phật tử Nam Tông.

Đã từ lâu Phật tử Nam Tông vẫn mong mỏi có được một quyển kinh hướng dẫn luật nghipháp môn tu tập cho hàng cư sĩ.

Những quyển kinh Nhật Hành của cư sĩ hay quyển Kinh Tụng cho người tại gia đã được các vị Hòa Thượng như Ngài Hộ Tông, Ngài Pháp Tri biên soạn, cũng đáp ứng được nguyện vọng của Phật tử. Nhưng gọi là để nêu rõ nét về vai trò cư sĩ, nghi lễ thực hành, pháp môn tu tập dành riêng cho cư sĩ ... thì phải nói là chưa có quyển kinh Nhật Hành nào đáp ứng được.

Chúng tôi tài hèn sức mọn nhưng cũng cố gắng sưu tập và biên soạn quyển Cư Sĩ Giới Pháp này nhằm đáp ứng nguyện vọng của giới Phật tử cư sĩ. Thật ra, chúng tôi đã san định lại quyển Cư Sĩ Giới Pháp ấn hành năm Tân Dậu 1981, của Hội Học Tam Tạng do Thượng Tọa Giác Chánh chủ xướng; nay chúng tôi soạn lại theo sự yêu cầu và khích lệ của Thượng Tọa

Quyển Cư Sĩ Giới Pháp này, gồm có năm chương:

Chương I - Cư sĩ trong Phật giáo
Chương II - Các pháp môn dành cho cư sĩ 
Chương III - Pháp tu tập của cư sĩ 
Chương IV - Các nghi thức khóa lễ 
Chương Phụ lục - Các vấn đề cần biết

Chúng tôi soạn trích dẫn từ Kinh tạng, Luật tạng những điều Đức Phật thuyết liên quan đến đời sống người cư sĩ; riêng phần nghi lễ thì chúng tôi soạn dựa theo các kinh Nhật Hành đã có và cũng theo kinh nghiệm cá nhân qua quá trình hướng dẫn Phật tử từ trước đến nay.

Chúng tôi thật sự rất mạo muội khi làm công việc này. Nhưng với thiện chí phụng sự Phật pháp và giúp ích cho hàng Phật tử cư sĩ, chúng tôi mong được sự khích lệ của chư tăng, không phải là sự khiển trách; cũng mong giúp nhiều lợi ích cho tín đồ Phật giáo Nam Tông. Được vậy chúng tôi rất hoan hỷmãn nguyện.

Mong cho Phật pháp thịnh hành, tứ chúng đồng tu trong niềm an lạc.

Tỳ Kheo Giác Giới
Bodhisīlabhikkhu

Source: thuvienhoasen


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11167)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 16536)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 12019)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 12197)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12872)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 12841)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10339)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 14072)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10296)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13788)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16361)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 12075)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 13060)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11735)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12757)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10901)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 11080)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 11027)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11969)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12886)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 11171)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12697)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11434)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
(Xem: 12619)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 14188)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10939)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10608)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11294)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 12092)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13242)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12444)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15447)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 14417)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12198)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15495)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12090)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12489)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11277)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12165)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10700)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12621)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13263)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14971)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12785)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16668)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19769)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 12366)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 13620)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 12032)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11716)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12842)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14624)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12708)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15766)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13709)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 13003)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 18108)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11257)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 12280)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13134)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant