BỘ
MẬT TÔNG (Bốn Tập)
Dịch
Giả: Tỳ Khưu Thích Viên Đức
E.
PHỤ THÊM
PHƯƠNG
PHÁP TU TỊNH TỌA
THIÊN
I
LỜI
TỰA CỦA ÔNG TƯỞNG DUY KIỀU
Nói
về đời tuổi trẻ của tôi mà tôi đã từng kinh nghiệm
(theo lời thuật của ông Tưởng Duy Kiều)
Tôi
thuở nhỏ thân thể ốm yếu, nhiều bệnh hoạn, như chứng:
Mộng tinh, di tinh, chóng mặt, đau lưng, mắt lòa, tai ù, mỗi
đêm ngủ đổ mồ hôi trộm .v.v…Nhiều chứng không phải
một.
Sức
tôi quá yếu không thể dở bước đi được năm trăm thước.
Ðến năm mười sáu tuổi các bệnh trạng lại càng thêm; như
chứng hồi hộp sợ sệt và hàn nhiệt vãng lai (nóng rồi
lạnh).
Năm
tôi mười bảy tuổi, vào tiết xuân, mỗi ngày từ một giờ
phát nóng cho đến sáng mai mới hết. Liên miên như vậy đến
năm mười tám tuổi tôi trị thuốc luôn nhưng không thấy
thuyên giảm.
Thuở
ấy trong nhà tôi có bộ sách thuốc tên là : “Y phương tập
giải”. Tôi lấy quyển chót hết ra xem, thấy trong ấy có
chép: “Những bệnh (như bệnh tôi) không thể trị thuốc
lành, cần phải tự mình tu tịnh tọa mới có thể lành bệnh”.
Trong sách ấy cũng có dẫn giải về phương pháp tu tịnh dưỡng
theo đạo gia Tiểu Chu Thiên.
Tôi
liền y theo đó học tập tịnh tọa, quả nhiên có công hiệu,
bệnh tôi được lành. Khi bệnh tôi lành từ năm mười chín
tuổi, tôi bỏ qua sự tu tịnh tọa công phu. Ðến năm hai mươi
hai tuổi tôi cưới vợ, tự cho là thân thể tráng kiện (nên
bỏ hẳn công phu tịnh tọa). Lại không tiết dục nên bệnh
cũ phát sanh, chứng bụng to và ống thực quản sưng, các bệnh
kéo dài mãi.
Ðến
năm tôi hai mươi bảy tuổi, anh lớn tôi bị bệnh phổi chết,
tôi cũng vì yếu nên bị truyền nhiễm. Năm hai mươi chín
tuổi tôi bị bệnh ho chẳng bao lâu bị thổ huyết, trải
qua ba tháng, bệnh tôi lại càng nguy kịch hơn.
Thuở
ấy, tôi quyết tâm dứt trừ vợ con và không uống các thứ
thuốc, ở riêng một tịnh thất, dứt hẳn các công việc
đời để tiếp tục tu hành tịnh tọa công phu. Tôi quy định
ngày giờ tịnh tọa. Giờ tý, giờ ngọ, giờ mẹo, giờ dậu,
mỗi ngày bốn thời như thế. Mỗi khi vô ngồi đủ hai giờ
đồng hồ mới ra.
Như
thế gần ba tháng, khi tôi ngồi xong dưới bụng tôi lần
lần phát nóng, sức nóng mỗi ngày tăng gia nhiều. Nơi bụng
tôi rung động nóng trào tợ hồ như nước sôi, mãi đến
tháng năm đêm 29, dưới bụng tôi đột nhiên chấn động
đến lưng và xương sống nóng xuống xương hông, dọc lên
xương sống giao cảm với thần kinh (thoe sách thuốc gọi là
thúc mạch) thông lên mé sau bộ não. Trong đêm ấy nó chấn
động liên tiếp sáu lượt, lần lần mới hết.
Kể
ra, tôi bắt đầu ngồi vào ngày mùng 5 tháng 3 năm hai mươi
tám tuổi, tiếp tục tịnh tọa cho đến 29 tháng 5, chỉ có
tám mươi lăm ngày thôi. Từ ngày ấy trở về sau mỗi khi
tôi vào ngồi thì sức nóng ấy y như trước, đi thẳng đường
lên đỉnh đầu. Nhưng trải qua thời kỳ nóng và sức chấn
động như thế thì thân thể tôi trở thành người mạnh khỏe
và hoàn toàn lành hết các bệnh tật Giờ đây tôi cất bước
đi mạnh dạn, mỗi khi đi chân, hơn mười cây số mà chẳng
thấy mệt nhọc.
Từ
đây về sau tôi công phu tịnh tọa không gián đoạn.
Ðến
năm tôi hai mươi chín tuổi, vì vấn đề sinh kế nên nhận
lời mời làm giáo sư dạy học, vì thế mà sự ngồi tịnh
tọa mỗi ngày chỉ còn sớm và tối.
Cũng
trong năm ấy (năm 29 tuổi), tháng 3 ngày 28 vào buổi sáng mai,
dưới bụng tôi sức nóng lại chấn động, đi dọc theo xương
sống đi lên rung động lên mé sau não, luôn như vậy ba ngày
đêm, xương mé sau não tôi thoạt nhiên thấy nở rộng ra,
rồi nhiệt lực từ bắp vế tôi nó xoay vần lên đầu. Từ
đây trở về sau, mỗi khi vào ngồi đều chuyển động như
vậy. Kế một thời gian nữa hết chuyển động.
Cho
đến ngày mùng 5 tháng 10 cũng năm ấy (năm 29 tuổi), vào lúc
nửa đêm, dưới bụng tôi lại chấn động rồi chuyển dần
lên đầu tôi, những nhiệt lực như trước kia. Nhưng lần
này nó tương phản phương hướng. Sức nóng ấy đi từ bụng
lên đầu, rồi đi thẳng xuống mặt rồi xuống miệng và
lỗ mũi xuống yết hầu, lại hiệp một đường, chạy dọc
theo thần kinh đi dọc theo ngực rồi xuống bụng dưới (theo
y học gọi là nhâm mạch).
Từ
đây về sau mỗi khi vào ngồi thì sức nóng ấy bắt đầu
từ dưới xương mông theo xương sống đi lên tới đỉnh đầu
tôi rồi lại từ mặt đi xuống đến bụng.
Từ
đó trọn năm chẳng thấy còn bệnh gì có thể phát sanh nữa.
Nên biết phương pháp tu tịnh tọa này:
1) Làm cho tâm thần an tịnh sáng suốt phát huệ nhớ dai hơn
mọi người.
2) Làm cho thân thể tráng kiện và trừ hết tất cả các chứng
bệnh. Mà chính tôi đã thực hành, kết quả tốt đẹp, không
phương thuốc nào bằng.
Tôi
cũng từng chỉ dạy nhiều người được kết quả mỹ mãn
như tôi, nếu ai chưa tin xin thực hành rồi sẽ thấy hiệu
quả chẳng sai. Trong sách có dạy rằng: “Tâm an, mâu ốc
ổn, tính định thể căn hương”. Nghĩa là: Chúng ta luyện
tập tâm tánh mình được an tịnh rồi, dù ở hoàn cảnh nào
cũng thấy an vui. Và tính ta có nhiều định lực (hay là định)
KINH
ÐẠI PHƯƠNG QUẢNG BỒ TÁT TẠNG KINH TRUNG
VĂN
THÙ SƯ LỢI CĂN BỔN NHẤT TỰ ÐÀ RA NI (QUYỂN 2)
Ðời
Ðường, Bắc Ấn Ðộ nước Ca Thấp Di La
Ngài
Tam Tạng Bảo Tư Duy dịch Phạn ra Hán.
Sa
Môn Thích Viên Ðức dịch ra Việt văn.
Tôi
nghe như vầy: Một thời Ðức Phật ở tại cõi Trời Tịnh
Cư, nơi đạo tràng Ðại Bảo Trang Nghiêm, có các đại Bồ
Tát cùng chư Thiên đại chúng đều đến nhóm hội.
Bấy
giờ đức Thế Tôn mở lòng đại từ đại bi, ở trong hội
ấy nói khắp tất cả chư Thiên, đại chúng rằng:
- Các
ngươi lắng nghe! Ngài Văn Thù Sư Lợi đồng tử có Pháp luân
chú, vì muốn cứu độ cho chúng sanh, hết thảy Như Lai đều
có tâm bí mật khai thị hiển thuyết. Nếu có người trì
tụng ta sẽ thọ ký cho người ấy, lúc trì tất cả các chú
khác mới mau hiệu nghiệm viên mãn, tất cả việc làm đều
được thành tựu không gì hơn. Các ngươi phải biết Ðà
Ra Ni này là Ðại Thần chú Vương, trong các chú có đại thần
lực.
- Nếu
có người Thiện nam, Tín nữ nào hay thọ trì, thì Ngài Văn
Thù Sư Lợi Ðồng Tử Bồ Tát sẽ đến ủng hộ, hoặc lúc
tỉnh giấc, hoặc ở trong mộng, Ngài hiện thân tướng và
hết thảy các điềm lành, có công năng khiến cho chúng sanh
đều vui mừng.
Các
Thiện nam tử! Chú Vương này còn thu nhiếp được Ngài Văn
Thù Sư Lợi Ðồng Tử Bồ Tát, huống nữa các Bồ Tát khác,
ở thế gian và xuất thế gian, cùng tất cả Hiền Thánh v.v…
Lại
nữa, Thiện nam tử! Thần chú này có các công năng tiêu trừ
tất cả tai chướng, tất cả mộng ác, tất cả oán địch,
tất cả tội ngũ nghịch, tội tứ trọng, thập ác và các
nghiệp tội nặng, tất cả tà ác, các chú pháp không lành
và có công năng diệt trừ hay thành biện tất cả việc lành,
được đại tinh tấn. Nên biết các chú tại thế và xuất thế thì chú này thù thắng hơn hết, là tâm của chư
Phật, hay khiến tất cả sở nguyện đều được viên mãn.
Nếu
có chỉ năm màu, kết Thần chú này thành dây, đeo nơi cổ
sẽ ủng hộ được thân mình, diệt trừ tai chướng, khiến
các nguyện đều được viên mãn, không gì sánh bằng, liền
nói Thần chú rằng:
“ÚM
XỈ LÂM”
Này
các Phật tử! Chú này có công năng tiêu diệt tất cả tà
ác, vọng lượng và các loài quỷ. Là Pháp kiết tường (an
lành) của hết thảy chư Phật, có công năng thành tựu tất
cả Thần chú. Người tụng chú này hay khiến cho chúng sanh
phát lòng đại từ, hay khiến cho chúng sanh phát lòng đại
bi, hết thảy chướng ngại đều được tiêu diệt, chỗ mong
cầu ước nguyện đều được đầy đủ, dù khi chưa làm
phép tắc cũng được tự ý thành biện các việc. Nếu phát
lòng Vô thượng đại Bồ đề, tụng chú này một biến
có năng lực gia hộ tự thân, nếu tụng hai biến có năng
lực gia hộ đồng bạn, nếu tụng ba biến có năng lực gia
hộ mọi người trong nhà, nếu tụng bốn biến có năng lực
gia hộ mọi người trong một thành, nếu tụng năm biến có
năng lực gia hộ mọi người trong gia hộ mọi người trong
một nước, nếu tụng sáu biến có năng lực gia hộ mọi
người trong một thiên hạ, nếu tụng bảy biến có năng lực
gia hộ mọi người trong bốn thiên hạ. Nếu mỗi sáng tụng
chú này một biến trong nước rửa mặt thì hay khiến người
thấy sanh lòng vui mừng, chú nơi hương thơm, thoa nơi áo mặc
cũng khiến mọi người thấy đều sanh lòng vui mừng.
- Nếu
bị đau răng, chú trong cây Lan mà nhâm nhai đó, thì răng đau
liền bớt.
- Nếu
có người nữ bị sản nạn (nạn sanh đẻ) lấy rễ cây A
Tra Lô Sa Ca hoặc rễ cây Lan Già Lợi Ca (cây Ngưu Tất) chú
vào đó bảy biến, lượt trùng lấy nước sạch, hòa vào
trong rễ cây ấy, thoa nơi sản nữ hay nơi rún, ấu nhi liền
sinh ra dễ dàng.
- Hoặc
có người nam bị trúng tên, đầu sắt nhọn của mũi tên
đâm vào gân xương, nhổ ra không được, lấy bơ mười năm,
ba lượng, tụng chú 108 biến, thoa nơi chỗ bị tên độc và
ăn bơ đó, mũi tên có sắt độc kia liền ra.
- Nếu
người đàn bà năm năm cho đến hai mươi năm, ba mươi năm
mà chẳng có con trai hay con gái, hoặc tự có bịnh, hoặc chồng
của người đàn bà ấy bị bịnh quỷ mị hay các thứ bịnh
khác, hoặc bị nhằm thuốc độc, lấy bơ để lâu trên mười
năm, năm lượng, lấy lông của đuôi con công, một lượng,
bỏ vào trong bơ ấy, tụng chú 21 biến, đem nghiền thật nhỏ,
rồi bỏ vào chưng nấu chín, lấy một lượng đường phèn
và ba trái A Lê Lặc lớn, bỏ hột lấy vỏ, hòa chung với
nhau lại tụng chú 108 biến, thường mỗi buổi sáng bụng
đói uống thuốc ấy vào, uống bảy ngày như vậy, liền có
con trai hay con gái.
- Nếu
đau đầu, lấy lông cánh của con chim, tụng chú này bảy biến,
phết chỗ đau nơi ấy tức bịnh liền lành.
- Nếu
bị bịnh rét, một ngày, hai ngày cho đến bảy ngày, hoặc
bị rét kinh niên, lấy thuần sữa tốt, nấu chung với cháo,
trộn vào một lượng bơ, tụng chú 108 biến cho người bị
bịnh ăn, tức bịnh liền dứt.
Này
các Thiên nam tử! Ðây chỉ tóm lược mà nói, nếu muốn bào
chế các thứ thuốc để uống thì trước cần phải chí tâm
tụng chú 21 biến, sẽ mau được như nguyện.
Lại
nữa! Các Thiện nam tử! Nếu có tất cả chúng sanh, bị quỉ
Phi đầu bắt giữ thì mình lấy tay thoa nơi mặt họ, tụng
chú 108 biến, mình làm tướng oai nộ, liền lấy tay trái kiết
ấn Bổn sanh (ngón tay cái co vào trong lòng bàn tay, sau dùng
bốn ngón kia nắm chặt ngón cái lại thành một hình cầm
cú) liền tự hét nộ mắt chăm nhìn và tụng chú mà xem bịnh
thì bịnh liền lành.
- Nếu
người bị các loài quỉ hành bịnh, mình tụng chú vào trong
tay phải 108 biến, thiêu An tất hương xông nơi tay, tay trái
kiết ấn Bổn sanh (ấn như trên) tay phải thoa nơi đầu của
người bị quỉ hành bịnh, bịnh liền dứt.
- Nếu
có oán địch cùng các ác mộng và các việc sợ hãi, làm
thân tâm bất an, lấy chỉ bảy màu hay năm màu, kết Thần
chú này thành dây hoặc thành hình hoa sen, hoặc thành hình
bánh xe Pháp luân, hoặc thành hình Kim Cang xử, tụng chú 108
biến, thiêu An tất hương, xông dây đó cho đến bảy ngày,
đeo vào nơi cổ, tất cả tai chướng đều được tiêu tán.
Hoặc lấy ngưu huỳnh nghiền nhỏ làm mực, viết trên giấy
sạch, hoặc là lụa trắng, vẽ hình đáng sợ nơi bốn bên,
hãy viết chữ “ÚM XỈ LÂM” chung quanh, hoặc vẽ hình
hoa sen, hoặc hình bánh xe Pháp luân, hoặc chữ vạn, hình ngư
ốc, hình Kim Cang móc câu, bình Cam lồ báu, vẽ chung quanh ấy,
tụng chú bảy biến thì chỗ sợ hãi liền tiêu trừ.
- Này
các Thiện nam tử! Nếu muốn đi qua các chỗ hiểm nạn sư
tử, hổ lang, độc xà, oán tặc tất cả chỗ nạn ấy, nên
cần dốc hết thân tâm cho thanh tịnh, không được gần gũi
người nữ, không được ăn ngũ tân (rượu, thịt, hành, hẹ,
nén, tỏi …) đối với chúng sanh, phát tâm đại từ bi, nhất
tâm tụng chú 49 biến thì các oán ác tự nhiên thối tán,
dầu có gặp đi nữa cũng đều sanh tâm vui mừng.
Này
các Thiện nam tử! Thần chú này đối với tất cả chúng
sanh, hoặc ở một kiếp, hoặc vô lượng kiếp, cho đến danh
tự không thể nghe được, huống nữa chuyên tâm tụng niệm,
giả sử của bảy báu như: voi, ngựa đầy dẫy cõi Diêm Phù
Ðề này, cũng là pháp hoại diệt của thế gian.
Ðà
Ra Ni Thần chú này, khiến chúng sanh hiện tại và tương lai,
thường được an ổn, hay làm quyến thuộc với các Như Lai
và các chúng đại Bồ Tát. Nếu vì bản thân mình hay bản
thân người khác thì các sở nguyện cũng đều được như
ý. Vậy cho nên phải ân cần khao khát, rất khó gặp, không
được khinh mạn, hoặc sanh tâm nghi ngờ.