BỘ
MẬT TÔNG (Bốn Tập)
Dịch
Giả: Tỳ Khưu Thích Viên Đức
E.
PHỤ THÊM
PHƯƠNG
PHÁP TU TỊNH TỌA
THIÊN
III
LỤC
DIỆU PHÁP MÔN
(SÁU
PHƯƠNG PHÁP HUYỀN DIỆU)
Chương
thứ hai đã giảng về công phu “Ðiều hoà”, tuy nhiên điều
hòa thân, điều hòa hơi thở, điều hòa tâm – ba việc đều
nói rõ nhưng nhiên trọng tại phương diện “Thân” pháp
môn chỉ quán thời chú trọng về phương diện của “Tâm”
Chương
lục diệu pháp môn này chú trọng về phương diện “hơi
thở”. Hơi thở là nguồn gốc của sanh mạng, thí dụ như
hơi thở đi ra không trở vào thì thân thể ta khi ấy là “tử
thi”. Thần kinh không còn tác dụng, sanh mạng tới đây là
hoàn toàn chấm dứt. Duy có nương tựa hơi thở này thì thân
tâm liên kết mới có thể duy trì sanh mạng ta.
“Khí
thể” ra vào nơi lỗ mũi, nương nơi hơi thở, chúng ta mắt
thịt nên xem không thấy. Mà khí thể rõ ràng có hình chất.
Ðã có hình chất thì là “vật”. Ðã là vật thì là một
bộ phận thuộc “thân thể”.
Chúng
ta biết “hơi thở ra vào” thì biết rằng: Ðó là “tâm”
của nó thuộc một bộ phận của “tinh thần” có thể thấy
“hơi thở đây” nó thườn liên kết với thân tâm. Nhơn
vì nó là bổn thân, là một bộ phận của “thân tâm”.
Lục
diệu pháp môn chuyên dạy người trên công dụng của
hơi thở, là phương pháp tịnh tọa triệt thỉ triệt chung.
Kẻ học giả tu tập “chỉ quán”, về sau tấn tu phương
pháp này cố nhiên khả dĩ.
Nếu
chưa tu tập pháp môn chỉ quán, một bề tu tập pháp môn này
(lục diệu pháp môn) đương nhiên cũng tốt vậy.
Lục
diệu môn có sáu tên:
1. Sổ, 2. Tùy; 3. Chỉ; 4. Quán; 5. Hoàn; 6. Tịnh.
Những
gì gọi là sổ? Ðếm hơi thở.
Ðếm
hơi thở có hai cách:
A. TU SỔ: Kẻ học giả vào tịnh tọa, trước hết phải
điều hòa hơi thở, không nghẹt, không thô. Phải rõ ràng
từ từ mà đếm, không đến mười, lấy hơi và làm chừng.
Tùy tiện của mỗi người nhưng không nên đếm cả ra vào.
Tâm chú tại nơi đếm không cho tán động.
Nếu
đếm chưa tới số mười mà tâm thoạt tưởng việc khác
thì phải trở lại đếm từ một đến mười. Ðây gọi là
tu sổ tức.
B. CHỨNG SỔ: Ðếm hơi thở lâu ngày, lần lần thuần
thục (quen) từ một đến mười, tự nhiên không lộn, hơi
thở ra vào rất nhỏ nhẹ. Thời kỳ này hiểu được
công dụng mà không chấp trước nơi sự đế gọi là chứng
sổ tức.
Từ
đây trở về sau phải xả “sổ tu tùy”. Tùy có hai thứ”
A. TU TÙY: Là xả phương pháp đếm hồi trước, chỉ nhất
tâm theo hơi thở ra vào. Tâm tùy nơi hơi thở “ra vào”.
Hơi thở cũng tùy nơi tâm. “Tâm, hơi thở” nương nhau, nhỏ
nhiệm (như tơ) gọi là tu tùy.
B. CHỨNG TÙY: Tâm đã lần nhỏ, biết hơi dài ngắn, ra
vào khắp cả châu thân. Các lỗ lông, cảnh của ý thức yên
tịnh lặng lẽ. Ðây gọi là chứng tùy. Lâu ngày hiểu được
“tùy tức” e nó còn thô nên xả “tùy tu chi”.
Chỉ
cũng có hai thứ”
A. TU CHỈ: Không bỏ “tùy chỉ” vin vào theo một
cái tâm, như cố ý, như không chú ý. Cái “chỉ” ở nơi
đầu lỗ mũi ấy gọi là “tu chỉ”.
B. CHỨNG CHỈ: Tu chỉ về sau, thoạt vậy hiểu rõ (thân
tâm) hảo tượng không, bặt vậy “rỗng” nhập định, ấy
gọi là “chứng chỉ”.
Dụng
công tu tập đến đây, kẻ học giả nên biết “định cảnh”
tuy tốt nhưng cần phải dụng tâm sáng suốt, phản chiếu
khiến nó rõ ràng, không ngu chấp nơi “chỉ” cho đến thời
kỳ này, phải gồm tu cả “quán”.
Quán
cũng có hai:
A. TU QUÁN: Ðến lúc này trong định tâm nhỏ nhít, thẩm
xét hơi thở ra vào như gió ở hư không, ấy gọi là tu “quán”.
B. CHỨNG QUÁN: Như thế quán lâu “tâm nhãn” mới tỏ
thấy “hơi thở” ra vào khắp các lỗ chân lông, ấy gọi
là “chứng quán”.
Ở
nơi cảnh “tu chỉ này” quán sát hai pháp, tuy sánh với chương
trước, danh từ “chỉ quán” đồng nhau mà ý nghĩa hơi khác.
Bởi vì ở trước nói “Chỉ quán” là tự nơi “tâm mà
tu” mà ở nơi đây thì “chỉ quán” từ nơi hơi thở mà
tu. Tu quán lâu rồi phải tu “Hoàn”.
Hoàn
cũng có hai:
A. TU HOÀN: Chúng ta phải dụng tâm mà quán chiếu “hơi
thở” thì có tâm trí “Năng quán” và cảnh “Sở quán”
là hơi thở, cảnh cùng với trí đối lập (tương đối không
phải tuyệt đối) nên phải đem trở về bổn nguyên của
tâm, ấy gọi là tu hoàn. Tâm trí năng quán là từ nơi tâm
sanh ra, đã từ tam sanh ra nên tùy tâm mà diệt. Một sanh, một
diệt vốn là huyễn vọng không thật có. Nên biết tâm sanh,
diệt thí dụ trên nước nổi sóng không phải là nước, sóng
yên mới thấy rõ chơn diện mục của nước.
Sanh
diệt của tâm như sóng, không phải là Chơn tâm. Phải quán
sát Chơn tâm vốn tự không sanh nên không có, không có
nên tức là không có tâm “năng quán”. Không có tâm “năng
quán” cũng không có cảnh “sở quán”.
B. CHỨNG HOÀN: Cảnh trí cả hai đều mất, ấy gọi “chứng
hoàn”. Ðã chứng rồi còn có một tướng “hoàn” phải
xả “hoàn” tu tịnh.
Tu
tịnh có hai:
A. TU TỊNH: Nhất tâm thanh tịnh, không khởi niệm phân
biệt, ấy gọi là “tu tịnh”.
B. CHỨNG TỊNH: Tâm như nước vọng tưởng hoàn toàn không,
Chơn tâm hiển hiện (không phải là vọng tưởng) chỉ có
một “Chơn tâm”.
Nên
biết trái “vọng” gọi là “chơn” cũng như sóng yên là
nước, gọi là “chứng tịnh”.
Trở
về trước của Lục Diệu Môn thì “sổ” với “tùy”
tu hành trước hết. “Chỉ” với “quán” là chánh tu. “Hoàn
với tịnh” là kết quả của sự tu hành. Những chính của
Lục Diệu Môn này “chỉ” làm chủ. “Quán” chỉ giúp
cho cái “chỉ” này rõ ràng sáng suốt, nhiên hậu mới có
thể kết quả đến “hoàn” với “tịnh”.
KINH
ÐẠI PHƯƠNG QUẢNG BỒ TÁT TẠNG KINH TRUNG
VĂN
THÙ SƯ LỢI CĂN BỔN NHẤT TỰ ÐÀ RA NI (QUYỂN 2)
Ðời
Ðường, Bắc Ấn Ðộ nước Ca Thấp Di La
Ngài
Tam Tạng Bảo Tư Duy dịch Phạn ra Hán.
Sa
Môn Thích Viên Ðức dịch ra Việt văn.
Tôi
nghe như vầy: Một thời Ðức Phật ở tại cõi Trời Tịnh
Cư, nơi đạo tràng Ðại Bảo Trang Nghiêm, có các đại Bồ
Tát cùng chư Thiên đại chúng đều đến nhóm hội.
Bấy
giờ đức Thế Tôn mở lòng đại từ đại bi, ở trong hội
ấy nói khắp tất cả chư Thiên, đại chúng rằng:
- Các
ngươi lắng nghe! Ngài Văn Thù Sư Lợi đồng tử có Pháp luân
chú, vì muốn cứu độ cho chúng sanh, hết thảy Như Lai đều
có tâm bí mật khai thị hiển thuyết. Nếu có người trì
tụng ta sẽ thọ ký cho người ấy, lúc trì tất cả các chú
khác mới mau hiệu nghiệm viên mãn, tất cả việc làm đều
được thành tựu không gì hơn. Các ngươi phải biết Ðà
Ra Ni này là Ðại Thần chú Vương, trong các chú có đại thần
lực.
- Nếu
có người Thiện nam, Tín nữ nào hay thọ trì, thì Ngài Văn
Thù Sư Lợi Ðồng Tử Bồ Tát sẽ đến ủng hộ, hoặc lúc
tỉnh giấc, hoặc ở trong mộng, Ngài hiện thân tướng và
hết thảy các điềm lành, có công năng khiến cho chúng sanh
đều vui mừng.
Các
Thiện nam tử! Chú Vương này còn thu nhiếp được Ngài Văn
Thù Sư Lợi Ðồng Tử Bồ Tát, huống nữa các Bồ Tát khác,
ở thế gian và xuất thế gian, cùng tất cả Hiền Thánh v.v…
Lại
nữa, Thiện nam tử! Thần chú này có các công năng tiêu trừ
tất cả tai chướng, tất cả mộng ác, tất cả oán địch,
tất cả tội ngũ nghịch, tội tứ trọng, thập ác và các
nghiệp tội nặng, tất cả tà ác, các chú pháp không lành
và có công năng diệt trừ hay thành biện tất cả việc lành,
được đại tinh tấn. Nên biết các chú tại thế và xuất thế thì chú này thù thắng hơn hết, là tâm của chư
Phật, hay khiến tất cả sở nguyện đều được viên mãn.
Nếu
có chỉ năm màu, kết Thần chú này thành dây, đeo nơi cổ
sẽ ủng hộ được thân mình, diệt trừ tai chướng, khiến
các nguyện đều được viên mãn, không gì sánh bằng, liền
nói Thần chú rằng:
“ÚM
XỈ LÂM”
Này
các Phật tử! Chú này có công năng tiêu diệt tất cả tà
ác, vọng lượng và các loài quỷ. Là Pháp kiết tường (an
lành) của hết thảy chư Phật, có công năng thành tựu tất
cả Thần chú. Người tụng chú này hay khiến cho chúng sanh
phát lòng đại từ, hay khiến cho chúng sanh phát lòng đại
bi, hết thảy chướng ngại đều được tiêu diệt, chỗ mong
cầu ước nguyện đều được đầy đủ, dù khi chưa làm
phép tắc cũng được tự ý thành biện các việc. Nếu phát
lòng Vô thượng đại Bồ đề, tụng chú này một biến
có năng lực gia hộ tự thân, nếu tụng hai biến có năng
lực gia hộ đồng bạn, nếu tụng ba biến có năng lực gia
hộ mọi người trong nhà, nếu tụng bốn biến có năng lực
gia hộ mọi người trong một thành, nếu tụng năm biến có
năng lực gia hộ mọi người trong gia hộ mọi người trong
một nước, nếu tụng sáu biến có năng lực gia hộ mọi
người trong một thiên hạ, nếu tụng bảy biến có năng lực
gia hộ mọi người trong bốn thiên hạ. Nếu mỗi sáng tụng
chú này một biến trong nước rửa mặt thì hay khiến người
thấy sanh lòng vui mừng, chú nơi hương thơm, thoa nơi áo mặc
cũng khiến mọi người thấy đều sanh lòng vui mừng.
- Nếu
bị đau răng, chú trong cây Lan mà nhâm nhai đó, thì răng đau
liền bớt.
- Nếu
có người nữ bị sản nạn (nạn sanh đẻ) lấy rễ cây A
Tra Lô Sa Ca hoặc rễ cây Lan Già Lợi Ca (cây Ngưu Tất) chú
vào đó bảy biến, lượt trùng lấy nước sạch, hòa vào
trong rễ cây ấy, thoa nơi sản nữ hay nơi rún, ấu nhi liền
sinh ra dễ dàng.
- Hoặc
có người nam bị trúng tên, đầu sắt nhọn của mũi tên
đâm vào gân xương, nhổ ra không được, lấy bơ mười năm,
ba lượng, tụng chú 108 biến, thoa nơi chỗ bị tên độc và
ăn bơ đó, mũi tên có sắt độc kia liền ra.
- Nếu
người đàn bà năm năm cho đến hai mươi năm, ba mươi năm
mà chẳng có con trai hay con gái, hoặc tự có bịnh, hoặc chồng
của người đàn bà ấy bị bịnh quỷ mị hay các thứ bịnh
khác, hoặc bị nhằm thuốc độc, lấy bơ để lâu trên mười
năm, năm lượng, lấy lông của đuôi con công, một lượng,
bỏ vào trong bơ ấy, tụng chú 21 biến, đem nghiền thật nhỏ,
rồi bỏ vào chưng nấu chín, lấy một lượng đường phèn
và ba trái A Lê Lặc lớn, bỏ hột lấy vỏ, hòa chung với
nhau lại tụng chú 108 biến, thường mỗi buổi sáng bụng
đói uống thuốc ấy vào, uống bảy ngày như vậy, liền có
con trai hay con gái.
- Nếu
đau đầu, lấy lông cánh của con chim, tụng chú này bảy biến,
phết chỗ đau nơi ấy tức bịnh liền lành.
- Nếu
bị bịnh rét, một ngày, hai ngày cho đến bảy ngày, hoặc
bị rét kinh niên, lấy thuần sữa tốt, nấu chung với cháo,
trộn vào một lượng bơ, tụng chú 108 biến cho người bị
bịnh ăn, tức bịnh liền dứt.
Này
các Thiên nam tử! Ðây chỉ tóm lược mà nói, nếu muốn bào
chế các thứ thuốc để uống thì trước cần phải chí tâm
tụng chú 21 biến, sẽ mau được như nguyện.
Lại
nữa! Các Thiện nam tử! Nếu có tất cả chúng sanh, bị quỉ
Phi đầu bắt giữ thì mình lấy tay thoa nơi mặt họ, tụng
chú 108 biến, mình làm tướng oai nộ, liền lấy tay trái kiết
ấn Bổn sanh (ngón tay cái co vào trong lòng bàn tay, sau dùng
bốn ngón kia nắm chặt ngón cái lại thành một hình cầm
cú) liền tự hét nộ mắt chăm nhìn và tụng chú mà xem bịnh
thì bịnh liền lành.
- Nếu
người bị các loài quỉ hành bịnh, mình tụng chú vào trong
tay phải 108 biến, thiêu An tất hương xông nơi tay, tay trái
kiết ấn Bổn sanh (ấn như trên) tay phải thoa nơi đầu của
người bị quỉ hành bịnh, bịnh liền dứt.
- Nếu
có oán địch cùng các ác mộng và các việc sợ hãi, làm
thân tâm bất an, lấy chỉ bảy màu hay năm màu, kết Thần
chú này thành dây hoặc thành hình hoa sen, hoặc thành hình
bánh xe Pháp luân, hoặc thành hình Kim Cang xử, tụng chú 108
biến, thiêu An tất hương, xông dây đó cho đến bảy ngày,
đeo vào nơi cổ, tất cả tai chướng đều được tiêu tán.
Hoặc lấy ngưu huỳnh nghiền nhỏ làm mực, viết trên giấy
sạch, hoặc là lụa trắng, vẽ hình đáng sợ nơi bốn bên,
hãy viết chữ “ÚM XỈ LÂM” chung quanh, hoặc vẽ hình
hoa sen, hoặc hình bánh xe Pháp luân, hoặc chữ vạn, hình ngư
ốc, hình Kim Cang móc câu, bình Cam lồ báu, vẽ chung quanh ấy,
tụng chú bảy biến thì chỗ sợ hãi liền tiêu trừ.
- Này
các Thiện nam tử! Nếu muốn đi qua các chỗ hiểm nạn sư
tử, hổ lang, độc xà, oán tặc tất cả chỗ nạn ấy, nên
cần dốc hết thân tâm cho thanh tịnh, không được gần gũi
người nữ, không được ăn ngũ tân (rượu, thịt, hành, hẹ,
nén, tỏi …) đối với chúng sanh, phát tâm đại từ bi, nhất
tâm tụng chú 49 biến thì các oán ác tự nhiên thối tán,
dầu có gặp đi nữa cũng đều sanh tâm vui mừng.
Này
các Thiện nam tử! Thần chú này đối với tất cả chúng
sanh, hoặc ở một kiếp, hoặc vô lượng kiếp, cho đến danh
tự không thể nghe được, huống nữa chuyên tâm tụng niệm,
giả sử của bảy báu như: voi, ngựa đầy dẫy cõi Diêm Phù
Ðề này, cũng là pháp hoại diệt của thế gian.
Ðà
Ra Ni Thần chú này, khiến chúng sanh hiện tại và tương lai,
thường được an ổn, hay làm quyến thuộc với các Như Lai
và các chúng đại Bồ Tát. Nếu vì bản thân mình hay bản
thân người khác thì các sở nguyện cũng đều được như
ý. Vậy cho nên phải ân cần khao khát, rất khó gặp, không
được khinh mạn, hoặc sanh tâm nghi ngờ.