Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần 4: Vị trí thánh điển Hoa văn trong Phật giáo thế giới

09 Tháng Tư 201100:00(Xem: 8965)
Phần 4: Vị trí thánh điển Hoa văn trong Phật giáo thế giới

TÌM HIỂU PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY

Thích Hạnh Bình

Phần 4

VỊ TRÍ THÁNH ÐIỂN HOA VĂN TRONG PHẬT GIÁO THẾ GIỚI

Hội Thân hữu Phật giáo thế giới, chủ yếu là liên lạc tính đặc thù giữa Phật giáo trong khu vực với Phật giáo thế giới trong mối giao lưu và hợp tác. Xuất phát từ tinh thần liên kết hòa vui và hợp tác, từ sự phát huy tính đặc thù văn hóa Phật giáo đến thực hiện sự nghiệp cứu giúp chúng sinh. Do vậy, trước tiên cần xác định quan điểm hợp tác là trên thế giới có bất kỳ hình thức sinh hoạt cá biệt nào của Phật giáo, đều có chung một cội nguồn từ đức Phật, do vậy không nên có thái độ võ đoán phiến diện, tự cho mình là đúng kẻ khác là sai lầm, không nên khinh khi phê phán Phật giáo Ðại thừa là “phi pháp”, đồng thời cũng không nên kiêu ngạo chê bai cho Phật giáo Tiểu thừa là hạng “tiêu nha bại chủng”. Chỉ có tình hữu nghị hợp tác với thái độ tôn trọng tin tưởng và giúp đỡ lẫn nhau, với tinh thần khách quan trong công tác nghiên cứu và học tập lẫn nhau, mới có thể cùng nhau chia sẻ sự hiểu biết, đó cũng là điều kiện để đôi bên cảm thônghợp tác. Có làm được vậy, mới có thể giúp cho chúng ta tìm ra cái tinh túy điểm cốt lõi của Phật giáo, đồng thời loại bỏ những điều tồi bại, để cho Phật giáo phát triển đúng hướng, và thích nghi cùng thời đại, hướng dẫn xã hội, giác tỉnh thế gian và giúp đỡ mọi loài.

Phật pháp đều có cùng một nguồn gốc, lấy giải thoát làm mục tiêu tối thượng, nhưng tính thích ứng xã hội của Phật giáo rất đa dạng, vì nó có khả năng hòa nhập với mọi dân tộc trên thế giới, tuy những dân tộc ấy không cùng một không gianthời gian. Do vậy, sự phát triển của nó dường như không có một hình thái cố định nào. Nhưng căn cứ khuynh hướng và quy luật phát triển của nó, chúng ta cần tìm hiểu khả năng thích ứng ngoại giới và sự liên kết nội giới của quá trình diễn biến của Phật giáo, từ đó nó cho chúng ta nhận thức rằng: sự bất đồng hình thức sinh hoạt của Phật giáo trên thế giới, là điều có thể cảm thônghợp tác. Một cách bình thường mà nói, vì mỗi loại hình sinh hoạt của Phật giáo của từng địa phương đều có sự ưu khuyết điểm của nó, do vậy chúng ta phải đứng trên lập trường bình đẳng, tôn trọng sự thật, mới có thể hy sinh cái ngắn ngủi không hoàn mỹ, để chọn cái lâu dài hữu ích hơn. Ðây chính là giải pháp tốt đẹptiến bộ nhất, để sinh hoạt của Phật giáo tiến gần với chân lý của đức Phật, đồng thời phù hợp với hoài bão chân chính của Ngài hơn.

Ðứng từ góc độ Phật giáo Ấn Ðộ quan sát đến sự hoạt động của những Phật giáo trong từng khu vực trên thế giới, tất cả những hình thức khác nhau ấy đều xuất phát từ một nguồn gốc là đức Phật, sau đó được phân chia và hình thành nhiều hình thức sinh hoạt Phật giáo khác nhau. Lý do chính yếu của nó là: 

1. Từ góc độ Thánh điển quan sát:

Phật pháp trước tiên kết tậplưu hành chỉ có Pháp và Luật, Pháp tức chỉ Kinh (Àgama). Cho đến thời gian trước và sau Tây lịch, những ngườøi nghiên cứu đến Pháp (Àgama) này, chú trọng phương pháp tu tập của Thinh văn, cho nên những người này đặc biệt đề cao sự phân tích về pháp tướng (màtrka) và chủ trương các pháp là thật có. Xuất phát từ quan điểm này, các luận sư tiến hành giải thích biên tập thành A tỳ đàm (abhidharma). Hoặc giả có ngườøi chú trọng đức tướng của Phật và hạnh Bồ tát, cho nên họ đề cao sự thể chứng pháp tánh duyên khởi, và cho rằng pháp tánh vốn là “không”. Từ đó những người có cùng quan điểm này biên tậplưu hành kinh điển Ðại thừa, trong đó có đề cập về “hữu” và “không”. Ðến thế kỷ thứ III sau Tây lịch, Bồ tát Long Thọ dựa vào lập trường tư tưởng “tánh không” của kinh điển Ðại thừa, phân tích tư tưởng của A-hàm (Àgama) và A tỳ đàm (abhidharma trước tác thành Trung luận và các luận khác. Trên thực tế, các kinh điển Ðại thừa đều có khuynh hướng chung, là thảo luận về tánh chơn thường và duy tâm, như các kinh điển Thắng Man, Niết Bàn v.v..., sau đó lại xuất hiện kinh Lăng Già v.v... cũng cùng mang tư tưởng này. Trong quá trình phát triển tư tưởng chơn thường và duy tâm của các kinh điển Ðại thừa, các nhà luận sư của Hữu bộ (Sarvastivadin), Du già, đều y cứ tư tưởng tánh không, duy tâm của những loại kinh này mà biên tập thành các luận Du giàDuy thức, thành một trong những hệ phái lớn của Phật giáo. Chúng ta căn cứ quá trình phát triển và diễn biến của nó, để chúng ta hiểu rằng, lý do có những kinh luận, mang nội dung tư tưởng khác nhau, đều mang tính tương thân tương duyên, là sự quan hệ chằng chịt, nhờ vào cái trước mà hình thành cái sau. Do đó, có sự bất đồng quan điểm và khuynh hướng giữa các kinh luận với nhau. Nếu chúng ta có cái nhìn thống nhất như vậy, chúng ta có thể hiểu rõ Phật giáo hơn.

 

2. Từ góc độ Giáo (tư tưởng) Thừa (hệ phái) :

Phật pháp ở giai đoạn sơ kỳ (nguyên thủy), Phật phápPhật pháp vốn không có sự khác biệt phân chia. Nhưng đến thời gian trước 7863 sau Tây lịch, Phật pháp phân hóa thành Thinh văn thừa và Bồ tát thừa. Qua kinh điển Ðại thừa, chúng ta có thể thấy một cách rõ sự phân chia giữa Tiểu thừa và Ðại thừa. Vào thế kỷ thứ II hoặc III sau Tây lịch, Bồ tát thừa lại xuất hiện những kinh điển mang tư tưởng chơn thường và duy tâm. Trong loại kinh điển này có sự khác biệt 3 hệ tư tưởng là: Hữu, không, trung, hoặc ba thừa là: Tiểu thừa, Ðại thừa và Nhất thừa. Sau đó, giáo lý Bồ tát thừa rất được phổ biến, đề cao quả vị Phật, do đó nó được gọi là Phật thừa. Ðến thế kỷ thứ V, trong tư tưởng diệu hữu của Phật thừa lại tiếp tục phân hóa thành Ðà-li-ni thừa. Thừa này đem Phật pháp phân làm Tam tạng là: Ba-la-mật tạng (bao gồm tất cả Ðại thừa hiển giáo), Ðà-li-ni tạng, hoặc gọi là Tứ đế hạnh, Ba-la-mật-đa hạnh và Cụ tham hạnh. Sự phân hóa của giáo phán này, biểu thị toàn bộ diện mạo của Phật pháp qua sự phân chia và phát triển của nó. Quan điểm phân chia này cùng với sự phân chia Phật pháp thành ba thời kỳ của Ðại sư Thái Hư rất giống nhau.

- 500 năm của thời kỳ đầu  - thời kỳ thịnh hành tư tưởng Tiểu thừa. Ðại thừa chưa xuất hiện: là giai đoạn thuộc văn học Pàli.

- 500 năm của thời kỳ giữa -thời kỳ thịnh hành tư tưởng Ðại thừa, Tiểu thừa không thịnh hành: là giai đoạn thuộc văn học Hoa văn.

- 500 năm của thời kỳ sau - thời kỳ Mật thừa thịnh hành, Hiển giáo không mấy thịnh hành: là giai đoạn thuộc văn học Tạng văn.

Phật giáo Hoa văn được lưu trữTrung Quốc, nó được dịch sang Nhật ngữ, hình thành Phật giáo Nhật Bản. Trong 3 thời kỳ của Phật giáo Ấn Ðộ, Phật giáo Trung Quốc rất chú trọng và đề cao Phật giáo ở giai đoạn đầu và Như Lai thừa ở giai đoạn sau. Trong suốt quá trình phát triển của Phật giáo thế giới, đây là những văn hiến đáng được chú ý, nó được dịch sang Hoa văn (phần lớn không còn Phạn bản). Như thế chỉ có Phật giáo Hoa văn mới có thể giúp cho chúng ta những lý giải một cách hoàn chỉnh về tiến trình diễn biến của Phật giáo ở Ấn Ðộ. Bây giờ, chúng ta căn cứ nguồn tài liệu này, thảo luận một vài điểm mang tính đặc thù của nguồn tư liệu bằng Hoa văn. Thứ nhất là A-Hàm (Àgama): Bốn bộ A-Hàm được bảo tồn một cáùch đầy đủ. Kinh Trung A-Hàm và “Kinh Tạp A-Hàm” là những bản kinh thuộc phái Thuyết nhất thiết hữu Bộ (Sarvastivadin), Kinh Trường A-Hàm thuộc hệ phái Phân biệt thuyết, Kinh Tăng Nhứt A-Hàm thuộc hệ phái Ðại chúng. Tuy những Văn hiến này so với thánh điển được ghi chép bằng tiếng Pàli thì không được đầy đủ, vì nguồn tư liệu bằng tiếng Pàli được bảo tồn một cách hoàn bị của Bộ phái Ðồng Diệp bộ, nhưng đối với nguồn tư liệu Hoa văn vẫn có giá trị đặc biệt của nó. Ngược lại, trong Ðại tạng kinh bằng tiếng Tây Tạng hoàn toàn không có bốn bộ A-Hàm này.

Ðiểm thứ hai là Tỳ-nại-da (Vinaya): Trong Ðại tạng bằng tiếng Tây Tạng chỉ lưu trữ những bộ tân luật của Hữu bộ, Trong Ðại tạng bằng tiếng Pàli chỉ có những bộ luật của Ðồng Diệp bộ, nhưng trong Ðại tạng bằng tiếng Hoa thì luận tạng được lưu trữ tương đối đầy đủ hơn cả hai nguồn tư liệu Pàli và Tạng văn, như:

1. Ðại chúng hệ: Ma ha tăng kỳ luật.

- Hóa địa bộ: Ngũ phần luật

- Pháp tạng bộ: Tứ phần luật

2. Phân biệt thuyết hệ 

- Ẩm quang bộ: Giới bổn

 - Ðồng diệp bộ: Thiện kiến luật

3. Thuyết nhất thiết hữu hệ

 - Cựu Hữu bô: Thập tụng luật.

 - Tân Hữu bộ: Căn bổn Thuyết nhất thiết Tỳ-nại-da.

4. Ðộc tử hệ.

- Chánh lượng bộ: Nhị thập nhị minh liễu luận.

 Ðây là những văn hiến được thu thập rất đầy đủ, đáng cho chúng ta làm công tác so sánh nghiên cứu.

Ðiểm thứ ba là A-tỳ-đạt-ma (abhiharma). Ðây là những bộ luận của ba phái lớn của hệ phái Thượng tọa là: 1. Phân Biệt Thuyết, 2. Thuyết Nhứt Thiết Hữu, 3. Ðộc Tử bộ. Ðối với nguồn tư liệu này, trong bộ Ðại Tạng bằng tiếng Tây Tạng chỉ lưu trữ một số rất ít về A-tỳ-đạt-ma, trong đó chỉ thấy có bộ Thi Thiết luận của Lục túc và Cu Xá luận, là bộ luận được xuất hiện tương đối muộn. Ngược lại, trong nguồn tư liệu văn học Pàli có đầy đủû tất cả 7 bộ luận. Trong Thánh điển Hoa văn, tuy phần lớn nguồn tư liệu thuộc Hữu bộ, nhưng trên thựïc tế, nó không giới hạn chỉ có Hữu bộbao gồm cả những bộ luận của các phái khác nhau. Những bộ luận thuộc Thuyết nhất thiết Hữu bộ, gồm có 6 bộ luận: 1. Pháp Uẩn Túc luận, 2. Tập Dị Môn Túc luận, 3. Thi Thiết luận, 4. Phẩm Loại Túc luận, 5. Giới Thân Túc luận,6. Thức Thân Túc luận. 6 bộ luận này được gọi là “Lục túc”, và nhất thânPhát Trí luận Tỳ Bà Sa luận. Ngoài ra, còn có A Tỳ Ðàm Tâm luậntác phẩm đối kháng với bộ Thuận Chánh Lý luận Hiển Tông luận thuộc hệ tư tưởng Cu xá; Phân biệt thuyết hệ có bộ Xá Lợi Phất A Tỳ đàm luận. Qua những tác phẩm này, chúng ta có thể nói, đây là những bộ luận có tính chất thiết yếu và duy nhất của Nam Bắc truyền A-tỳ-đàm luận. Ngoài ra, Bắc truyền còn có Giải Thoát Ðạo luận, là dị bản của tác phẩm Thanh Tịnh Ðạo luận thuộc văn học Pàli; Ðộc tử bộTam Di Ðể Bộ luận, Tam Pháp Bộ luận. Ngoài ra, tác phẩm được xuất hiện khá muộn vào khoảng thế kỷ thứ III, IV sau Tây lịch là bộ Cu Xá luận, qua nội dung tư tưởng của bộ luận, có thể liệt vào Hữu bộKinh bộ, nhưng cần phải chọn lọc và tổng hợp, vì Cu Xá luậntác phẩm khá nổi tiếng trong giới Phật giáo, nó có ảnh hưởng khá sâu đậm đến tác phẩm Thành Thật luận,tác phẩm mang tính chủ lưu của Phật giáo Trung Quốc. Căn cứ những văn hiến này, tiến hành nghiên cứu và lý giải, chúng ta thấy Tam tạng thánh điển của thời đại Phật giáo sơ kỳ, tuy Phật giáo Trung quốc không đề cao, xiển dương về nó, nhưng nguồn tư liệu này rất phong phú, và đáng được tin cập, làm cơ sở để chúng ta tiến hành nghiên cứu tìm hiểu sự phân chia các bộ pháiPhật giáo Ðại thừa gọi là Thinh Văn, thậm chí nó cũng là bằng chứng cụ thể để phát triển thành tinh thần Bồ tát hạnh của Ðại thừa. Nếu như chúng ta nghiên cứu Phật học mà vô tình hay cố ý bỏ qua nguồn tư liệu Phật giáo bằng Hoa văn này, tôi tin chắc rằng, khó có thể hoàn thành những điều kiện cơ bản để các nước Phật giáo trên thế giới cảm thông và ngồi lại với nhau, vả lại với mục đích tìm hiểu Phật giáo Ấn Ðộ, cũng khó hoàn thành trách nhiệm cao cả đối với Phật giáo thế giới.

Ðiểm thứ tư và năm, những kinh điển Ðại thừa đều mang ý nghĩa “Tánh không” và “Chơn thường”. Những thánh điển này phần lớn được lưu trữ rất đầy đủ trong văn học Hoa văn và Tạng văn (tạng Pàli không có những thánh điển này). Bốn bộ kinh: Bát Nhã, Hoa Nghiêm, Ðại Tập, Niết Bàn, hoặc thêm Bảo Tích thành năm bộ kinh lớn, đều là những bộ kinh nổi tiếng của kinh điển Ðại thừa. Ở đây, tôi có thể giới thiệu tính đặc thù ưu việt của Thánh điển Hoa văn gồm có những ưu điểm như sau:

1. Các bản dị dịch của Hoa văn, được giữ nguyên vẹn những điểm không giống nhau của nó, nhưng điều này ở bản Tây Tạng đã trải qua nhiều đợt tu chỉnh, làm mất đi dấu tích nguyên bản. Do đó, nghiên cứu thánh điển Hoa văn, chúng ta có thể tìm thấy rõ ràng và tườøng tận quá trình và diễn biến theo trật tự lịch sử của Thánh điển Phật giáo, đồng thời nó cũng cho chúng ta có thể hiểu rõ tính không đồng nhất từ Tây phương (Ấn Ðộ). Ðây không phải là cái nhìn thiên kiến cố chấp, trên thực tế chúng ta căn cứ những tư liệu Hoa văn này, nó cho chúng ta thấy rõ sự diễn biến đó.

2. Kinh Ðại thừa được dịch sang Hoa văn, được truyền dịch trước thời lưỡng Tấn cùng thời với phiên dịch của Phật giáo Tây Tạng, đặc biệt có quan hệ mật thiết, vì cả hai nơi đều lấy khu vc vùng núi thuộc nước Kế Tân làm trung tâm, rồi dần dần mở rộng đến vùng phía Tây của Thổ Hỏa La, phía Tây Nam của Phạm Thuật Na và Na Yết La, phía Ðông của Kiến Ðà La, phía Ðông Bắc của Kiệt Xoa, Tử Hợp và Vu Ðiền. Ðiều này đối với giới Phật giáo Trung Quốc, nó tạo thành trung tâm tư tưởng Phật giáo. Trong đó, Bồ Ðề Lưu Chihọc giả Bắc Ấn đã dịch tác phẩm Thập Ðịa luận, Lăng Già luận sang Hoa văn, đây là những tác phẩmgiá trị rất đặc sắc.

Ðiểm thứ sáu là Trung Quán. Tác phẩm “Trung Quán” mà được người Trung quốc lưu truyền cùng với tác phẩm “Trung Quán” của người Tây Tạng lưu truyền là hai bản không giống nhau. Bản mà Hoa văn truyền thừa là bản của giai đoạn sơ kỳ. Ðặc biệt chú trọng những luận điểm mà Long Thọ thảo luận, như bộ Ðại Trí Ðộ luận là bản giải thích Kinh Bát Nhã, Thập Trụ Ðại Tỳ Bà Sa luậntác phẩm giải thích Thập Ðịa luận, nó không chỉ là ý nghĩa thâm sâu của Trung Quán, mà còn đề cao tinh thần Bồ tát hạnh. Khác với tác phẩm Trung Quán của thời hậu kỳ, là bản được xuất hiện sau thời kỳ Du già, là những bộ luận của những đệ tử của Long Thọ. Ðối với những tác phẩm của thời hậu kỳ này, trong Ðại tạng Hoa văn chỉ có Bát Nhã Ðăng luận của Thanh Biện, không phong phú bằng Tạng văn, vả lại nó cũng được phân chia khá nhiều học phái. Tác phẩm Nhập Ðại Thừa luận của Kiên Tuệ, Thuận Trung luận của Vô Trước, là hai tác phẩm đại biểu cho khuynh hướng từ Trung quán chuyển hướng đến giai đoạn Du già.

Ðiểm thứ bảy, Du già duy thức. Ðối với học phái này, tư liệu Hoa văn rất đầy đủ, gồm có Thập Ðịa luận, Nhiếp luận, Thành Duy Thức luận là ba trường phái lớn. Nhưng nguồn tư liệu bằng tiếng Tây Tạng chủ yếu chỉtrường phái An Huệ mà thôi, tư tưởng của trường phái này có thể nói gần với tác phẩm Nhiếp luận của nguồn tư liệu Hoa văn. Nhưng trường phái Duy Thức mà nguồn tư liệu Hoa văn đề cao là trường phái của Hộ Pháp, không phải là An Huệ. Trong đó, tác phẩm Thành Duy Thức luậntác phẩm được tiêu biểu cho tư tưởng của Trần Na, Hộ Phápgiới Hiền. Có thể nói, chúng ta biết được học phái này, ngang qua nguồn tư liệu Hoa văn. Nhơn Minh luậntác phẩm song hành Duy thức tướng, nó so với những tác phẩm của Trần Na, Pháp Xứng được truyền dịch trong Tạng văn thì không mấy đầy đủ. Ðiều này nói lên tinh thần dân tộc Trung Hoa không chú trọng tính logic, không đề cao sự tranh biện bằng ngôn từ. Ðây là sự giới hạn của các luận sư của Phật giáo Trung Quốc trong quá khứ, điều đó không đủ chiếm vị trí chủ lưu.

Ðiểm thứ tám, Bí mật Du già. Sự bộ (Nhật Bản gọi là Tạp mật), là Kinh Ðại Nhật của Hành bộ, Kinh Kim Cang Ðảnh của Du già bộ, trong Ðại tạng kinh bằng Hoa văn đều có dịch và truyền thừa. Chỉ có Vô thượng Du già bộ chịu ảnh hưởng của thời đại, khi Vô thượng Du già thịnh hành, là thời gian Trung quốc rơi vào tình trạng suy vi, chịu những ảnh hưởng những tập khí không tốt, phái này lấy việc dâm dục làm pháp môn tu tập, do đó nó không được giới tri thức Trung Quốc chấp nhận. Liên quan đến nguồn tư liệu về phái Bí mật Du già này được bảo tồn trong Tạng văn khá đầy đủ.

Những điều vừa trình bày trên, cho chúng ta thấy rằng Thánh điển được dịch sang tiếng Hoa, tuy Phật giáo của đất nước này chỉ chú trọng giai đoạn Trung kỳ Ðại thừa, nhưng trên thực tế, Thánh điển được dịch sang Hoa văn không giới hạn chỉ có nguồn tư liệu của Phật giáo trung kỳ; Nguồn tư liệu của Phật giáo ở giai đoạn vãng kỳ chúng ta cũng rõ được nguồn gốc; Phật giáo ở giai đoạn sơ kỳ cũng được truyền dịch sang tiếng Trung Quốc khá phong phú. Do đó, căn cứ từ nguồn tư liệu Hoa văn, chúng ta tiến hành lý giải nghiên cứu, bằng cách tham khảo Tam tạng thánh điển Thinh văn của văn học Pàli ở giai đoạn sơ kỳ, đồng thời nghiên cứu Trung quán, Vô thượng Du Già của thời kỳ cuối Phật giáo qua nguồn tư liệu Tạng văn. Từ đó chúng ta có được toàn cảnh của bức tranh phát triển của Phật giáo, đã trải qua thời gian một ngàn sáu bảy trăm năm, và nó cũng được lưu truyền đến ngày nay qua ba hệ văn học: Pàli văn, Hoa văn và Tạng văn của Phật giáo. Qua đó, chúng ta có cái nhìn về Phật giáo tương đối hoàn chính xác, hoàn chỉnh và có hệ thống hơn. Ðối với vấn đề này, ngài Thái Hư đã phát biểu:

“Y cứ những thánh điển được lưu truyền tại Trung Quốc, tham khảo văn bản Pàli ở Tích Lan và bản dịch của Tây Tạng. Qua đó, chúng ta tiến hành phân biệt chọn lọc để tìm ra điểm chân chánh Phật pháp, đề xuất quan điểm mới, là mục đích luận thuật Phật giáo sử Ấn Ðộ”.

Ðây không chỉ nghiên cứu sử Phật giáo Ấn Ðộ, mà còn là điều cơ bản để các nước Phật giáo trên thế giới có sự thông cảm lẫn nhau, nó cũng là phương pháp giải quyết tối ưu và hợp lý nhất trong việc quyết định chọn lấy điều tốt đẹplâu dài, bỏ đi những gì mang tính hữu hạn và xấu xa, để hướng đến mục đích cao cả, để cho Phật giáo mỗi ngày mỗi phát triển và thích nghi với từng thời đại.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 34603)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 32215)
Tất nhiên không ai trong chúng ta muốn khổ, điều quan trọng nhất là chúng ta nhận ra điều gì tạo ra khổ, tìm ra nguyên nhân tạo khổ và cố gắng loại trừ những nhân tố này.
(Xem: 30425)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 30689)
Một cách tự nhiên, cảm xúc có thể tích cựctiêu cực. Tuy nhiên, khi nói về sân hận hay giận dữ, v.v..., chúng ta đang đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
(Xem: 21034)
Gốc rễ của tất cả những tâm thức phiền não tiêu cực là sự dính mắc, thủ trước, hay chấp ngã của chúng ta với những thứ, những vật, những sự kiện như tồn tại thực sự.
(Xem: 20213)
Nguyện mang lại an vui, Cho tất cả chúng sinh. Tôi xin yêu thương họ, Với tất cả lòng tôi.
(Xem: 19445)
Tâm vốn không thiện không ác, chỉ vì có Hành nên có thức qua trung gian của Tâm mà ta gọi Tâm thiện tâm ác. Gọi như thế là ta gọi cái trạng thái của thức mà thôi.
(Xem: 24400)
Để có thể ý thức được sự kiện tất cả các hiện tượng ảo giác đều không khác nhau trên phương diện tánh không, thì nhất thiết phải tập trung sự suy tư thẳng vào tánh không.
(Xem: 30703)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 15700)
Người Phật tử ngày nay, nếu có một tiêu chuẩn nào cần nhớ và suy xét kĩ lưỡng trên bước đường tu học của mình, thì có lẽ đó là Trung Đạo.
(Xem: 27815)
Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm...
(Xem: 19782)
Từ bi là một phản ứng của tâm thức khi nó không thể chịu đựng nổi trước những cảnh khổ đau của người khác và phát lộ những ước nguyện mãnh liệt...
(Xem: 15584)
Qua tinh thần kinh Hiền Nhân, chúng ta nhận ra một cái nhìn về đạo đức Phật giáo trong việc ứng xử giữa người với người, là một bài học quý giá...
(Xem: 23272)
Số đông quần chúng cần một thời gian dài mới quen thuộc với ý niệm về tái sinh. Tôi cũng đã trải qua nhiều giai đoạn trong tiến trình đưa đến sự xác tín vào tái sinh.
(Xem: 23593)
Con đường tâm linhchúng ta đang cùng nhau tiến bước có vô số chướng ngại, đầy sỏi đá chông gai, chúng ta cần nắm chắc tay nhau...
(Xem: 17546)
Năm uẩn của chúng ta -- thân thể, cảm giác, nhận thức, thúc đẩy, thức: chúng là đất sét mà chúng ta nhào nặn và tạo hình qua sự thực tập thành một vị bồ tát...
(Xem: 15707)
Giải thoát sanh tử không phải là hiện đời không chết, không phải là sống mãi ở vị lai, mà là những khổ sanh tửvị lai không còn sanh khởi nữa...
(Xem: 21920)
Bàn về các pháp thế gian, Phật Pháp không bao giờ được dùng để thực hành với động cơ đem ra buôn bán nhằm mang lại danh tiếng hay tài bảo cho một cá nhân nào đó.
(Xem: 38047)
Bộ Mật Tông - Gồm có 4 tập - Soạn giả: Thích Viên Đức
(Xem: 22206)
Các khoa học gia ngày nay trên thế giới đang có khuynh hướng chú trọng vào chế độ dinh dưỡng lành mạnh lấy chất bổ dưỡng từ nguồn thức ăn do thực vật đem lại...
(Xem: 23273)
Đối tượng nghiên cứu của xã hội học là con người, trong khi đó, xã hội học Phật giáo có những bước nghiên cứu xa hơn không chỉ nói về con người mà còn đề cập đến các loài hữu tình khác...
(Xem: 21370)
Giác ngộ là sự hiểu biết đúng như thật; giải thoát là sự chấm dứt mọi phiền não khổ đau. Chỉ có sự hiểu đúng, biết đúng mới có sự an lạchạnh phúc...
(Xem: 28432)
Mục đích giáo dục của đức Phật là làm thế nào để đoạn trừ, hay tối thiểu làm giảm bớt những khổ đau của con người, đưa con người đến một đời sống an lạchạnh phúc...
(Xem: 32580)
Cho đến nay Phật giáo đã tồn tại hơn 2.500 năm, và trong suốt thời kỳ này, Phật giáo đã trải qua những thay đổi sâu xa và cơ bản. Để thuận tiện trong việc xem xét, lịch sử Phật giáo có thể được tạm chia thành bốn thời kỳ.
(Xem: 25207)
Với đạo Phật qua thời giankhông gian giáo thuyết của Phật vẫn không mai một mà còn được truyền bá ngày càng sâu rộng. Bởi lời Phật dạy là một chân lý muôn đời...
(Xem: 34708)
Trong suốt cuộc đời hóa độ, số người qui hướng về đức Thế Tôn nhiều đến nỗi không đếm hết được; riêng chúng đệ tử xuất gia, cả tăng lẫn ni, cũng phải hàng vạn.
(Xem: 22974)
ĐẠO PHẬT VỚI CON NGƯỜI, cống hiến con người một phương châm giải thoát chân thật, đem lại sự ích lợi cho mình, cho người và kiến tạo một nền tảng hòa bình vĩnh viễn...
(Xem: 27744)
Khi đối diện với việc cầu nguyện, chúng ta thường có nhiều nghi vấn. Nghi vấn đầu tiên là cầu nguyện có kết quả không?
(Xem: 31334)
Ít người muốn đối diện với sự thật là các ý nghĩ và cảm nhận của họ đều vô thường. Tuy nhiên, một khi đã biết được như thế rồi thì ít ai có thể phủ nhận sức mạnh của sự thật này...
(Xem: 13618)
Người ta luôn hỏi câu này, Phật đã đi đâu và hiện nay ngài đang ở đâu? Đây là một câu hỏi rất khó trả lời cho những ai không có một sự tu tập về đời sống tâm linh.
(Xem: 25220)
Cư sĩ sống trong lòng dân tộc và luôn luôn mang hai trọng trách, trách nhiệm tinh thần đối với Phật Giáo và bổn phận đối với cộng đồng xã hội, với quốc gia dân tộc.
(Xem: 27860)
Chúng tôi viết quyển sách này cho những người mới bắt đầu học Phật. Bước đầu tuy tầm thường song không kém phần quan trọng, nếu bước đầu đi sai, những bước sau khó mà đúng được.
(Xem: 22129)
Người cư sĩ tại gia, ngoài trách nhiệm và bổn phận đối với gia đình, xã hội còn có nhiệm vụ hộ trì Tam Bảo. Cho nên trọng trách của người Phật Tử tại gia rất là quan trọng...
(Xem: 20762)
Trước khi vào nội dung đề tài lần này thì có một nghi vấn đã được đặt ra như sau: "Mục tiêu của đạo Phật vốn là để giải thoát hành giảchúng sinh khỏi đau khổ luân hồi...
(Xem: 22229)
Đạo Phật đã hình thành và phát triển hơn 2500 năm, cho đến nay, tôn giáo này đã đang được sự chú ý nghiên cứu ứng dụng của các nhà khoa học.
(Xem: 27169)
Trong Đường Xưa Mây Trắng chúng ta khám phá ra Bụt là một con người chứ không phải là một vị thần linh. Đó là chủ tâm của tác giả...
(Xem: 24172)
Để hỗ trợ cho việc phát triển và thực thi tâm hạnh từ bi, việc chủ yếu là phải vượt qua những chướng ngại. Nơi đó, hạnh nhẫn nhục đóng vai trò quan trọng...
(Xem: 21939)
Sự hiểu biết về sự vật hiện tượng thông thường đơn thuần chỉ là trí tuệ thế gian. Liệu loại trí tuệ này có thực sự giúp ta tiến bước trên con đường giác ngộ hay không...
(Xem: 14727)
Đức Phật là vị A-la-hán đầu tiên. Các vị A-la-hán đệ tử của ngài đều giống ngài và các vị Bồ-tát ở chỗ sau khi chứng đạt giải thoát, tiếp tục cứu độ nhân loại...
(Xem: 23189)
Chết là một phần tự nhiên của sự sống, mà tất cả chúng ta chắc chắn sẽ phải đương đầu không sớm thì muộn. Theo tôi thì có hai cách để xử với cái chết trong khi ta còn sống.
(Xem: 24042)
Ðức Phật là một chúng sanh duy nhất, đặc biệt Ngài là nhà tư tưởng uyên thâm nhất trong các tư tưởng gia, là người phát ngôn thuyết phục nhất trong các phát ngôn viên...
(Xem: 21152)
Tâm giác ngộ còn được gọi là Bồ đề tâm (Bodhicitta). Trong tiếng Phạn, “citta” là tâm và “Bodhi” là giác ngộ. Bodhicitta có thể được dịch là tâm hiểu biết hoặc tâm chứa đầy hiểu biết.
(Xem: 14219)
Nghiệp một phần được biểu hiện qua quy luật nhân quả. Những gì chúng ta đang trải qua là kết quả của các nghiệp nhân do chính ta đã tạo trước kia.
(Xem: 19953)
Có rất nhiều loại cảm xúc khác nhau, và chúng đều là sự phóng chiếu của tâm. Các cảm xúc vốn không tách rời khỏi tâm, nhưng vì chúng ta chưa nhận được bản chất tâm...
(Xem: 22525)
Nền tảng những lời dạy của Đức Phậtphật tính. Và cũng do phật tínhĐức Phật đã ban cho những lời giảng. Mọi chúng sinh đều có khả năng để hoàn thiệnđạt được giác ngộ.
(Xem: 14085)
Trong tâm của chúng ta, nước là do ái mà hiện tướng. Nước là thứ đi xuống, chảy xuống, chứ không bao giờ chảy lên. Hễ có sân, ghét, bực bội thì có lửa, phực lửa bật ra...
(Xem: 28071)
Để hiểu Đạo Phật là gì? Ta hãy gạt mọi thiên kiến chỉ cần tìm sâu vào nguồn giáo lý cao đẹp ấy, một nền giáo lý xây dựng trên sự thật để tìm hiểu sự thật, do đức giáo chủ Thích Ca Mâu Ni sáng lập... HT Thích Đức Nhuận
(Xem: 22852)
Tái sinh và nghiệp là những vấn đề liên quan đến nhau gắn liền với mỗi cuộc đời. Mỗi khoảnh khắc là sự nối tiếp của khoảnh khắc trước đó...
(Xem: 28229)
Bởi vì niềm hạnh phúc và chính sự tồn tại của chúng ta là kết quả của sự giúp đỡ bảo bọc của mọi người, chúng ta phải phát huy thái độ cư xử tốt đẹp của mình đối với mọi người xung quanh.
(Xem: 11008)
Nếu chúng ta sống với tâm hồn vô tư, biết vận dụng thời gian vào những việc làm có ích, quảng kết thiện duyên, tất nhiên thời gian đó là thời gian hữu ích phú quý.
(Xem: 28526)
Hai mươi bốn bài pháp thoại trong quyển sách này được giảng theo tinh thần của Kinh Đại Bát Niết Bàn, chú trọng vào sự thực hành nơi bản thân, 'xem Pháp là nơi nương trú, là hải đảo của chính mình".
(Xem: 31595)
Trong khi Đức Phật tạo mọi nỗ lực để dẫn dắt hàng đệ tử xuất gia của Ngài đến những tiến bộ tâm linh cao cả nhất, Ngài cũng nỗ lực để hướng dẫn hàng đệ tử cư sĩ tiến đến sự thành công...
(Xem: 26218)
Tu họchành trì giáo pháp của Phật dạy là dấn bước vào một cuộc chiến đối kháng giữa hai lực lượng tiêu cực của nội tâm. Hành giả cần truy cầu để khai trừ mặt tiêu cực...
(Xem: 14987)
"Người ta không bao giờ tắm hai lần trên một con sông" triết gia Hy Lạp cổ đại Hêraclitôxơ đã nói như vậy cách đây 2.500 năm.
(Xem: 28053)
Trong phần thứ nhất, Đức Đạt-Lai Lạt-Ma giảng về Bồ-đề tâm và cách tu tập của những người Bồ-tát. Trong phần thứ hai, Ngài giảng về Triết lý của Trung Đạo.
(Xem: 7454)
Phật GiáoTâm Lý Học Hiện Đại do ban biên tập của Bồ Đề Học Xã biên soạn, là một tài liệu giá trị cho những ai muốn tìm hiểu sự khác và giống giữa Phật PhápTâm lý Học Trị Liệu Tây phương.
(Xem: 25388)
Phật Pháp là một hệ thống triết họcluân lý truyền dạy con đường duy nhất dẫn đến Giác Ngộ, và như vậy, không phải là một đề tài để học hỏi hay nghiên cứu suông...
(Xem: 20718)
Hễ nói đến Giáo pháp của đức Phật, chúng ta không thể không nói đến pháp Duyên khởi hay nguyên lý Duyên khởi (Pratìtyasamutpàsa).
(Xem: 21143)
Sách này có hai phần: Đạt-lại Lạt-ma tại Harvard, bao gồm các khóa trình được thực hiện tại đại học Harvard, được giáo sư Jeffrey Hopkins dịch từ Tạng sang Anh ngữ...
(Xem: 12271)
Thực tế, Đức Phật xác nhận rằng cả nữ và nam có một cơ hội bình đẳng và khả năng để thực hành giáo pháp và để thành đạt mục tiêu tu tập.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant